TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Friday 5 January 2018

***Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí






Kinh thánh có câu:
VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI
BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM

Nhân mùa Lễ Giáng Sinh 2017
và Năm Mới Dương Lịch 2018
trong niềm hân hoan của mọi người Việt Nam
trên toàn thế giới
VP.PHTQ.CANADA trân trọng kính chúc tất cả những người thiện tâm trên trái đất
BÌNH AN & HẠNH PHÚC

Không cần phải thờ phượng Ðức Phật Thích Ca, hay bất cứ vị Phật nào, vị Bồ Tát nào, 
bất cứ thần tượng hay thánh tượng nào gọi là linh thiêng huyền bí cầu gì được nấy,
nhà thờ hay nhà chùa
chỉ cần sống đúng theo tinh thần bát chánh đạo, 
bất cứ người nào cũng
đều được an lạc và hạnh phúc, 
cao hơn nữa,
đều được giác ngộ và giải thoát. 

Bằng như ngược lại, lập bàn thờ Phật tại gia,
đi chùa lễ lạy, tôn thờ bất cứ thần tượng hay linh tượng của bất cứ tôn giáo nào,
ca ngợi Giáo Chủ, tán tụng Đức Phật,
vinh danh Thiên Chúa, lễ bái Thiên Tôn Thiên Cực, Thiên Mẫu Thiên Địa, 
Thiên Binh Thiên Tướng, Ngọc Hoàng Thượng Đế,
không sống đúng theo tinh thần bát chánh đạo
vẫn tiếp tục đời sống tham lam, sân hận, si mê,
dù là Phật tử tại gia hay xuất gia, 
dù là giáo sĩ tu sĩ hay tín đồ của bất cứ tôn giáo nào, đa thần độc thần hay vô thần,
cũng chẳng có ích lợi gì,
con người vẫn cứ phiền não khổ đau và trầm luân đau khổ,
kiếp này kiếp sau, đời này và đời sau.

Ðó mới thực là chí công vô tư, mới thực là chánh đạo vậy. 
Kính mời viếng thăm:
http://phtq-canada.blogspot.com/


From:

Do Nghia Trung trungnghia196331@yahoo.com
Date: 2018-01-01 22:00 GMT-05:00
Subject: Xin giải nghĩa ngắn gọn từng mục Bát Chánh Đạo ?
To: PHAT HOC TINH QUANG cutranlacdao.canada@gmail.com
Cc:  
Kính thưa Thày,
Kính xin Thày vui lòng giúp con giải nghĩa ngắn gọn từng mục về Bát Chánh Đạo được không ?

1-Chánh kiến: Thấy --- ?        
2-Chánh tư duy: suy nghĩ --- ?
3-Chánh ngữ: Nói --- ?
4-Chánh nghiệp: Làm việc --- ?
5-Chánh mạng: Đời sống --- ?
6-Chánh tinh tấn: ----------- ?
7-Chánh niệm: Tịnh tâm --- ?
8-Chánh định: Quyết định đúng ?

Trân trọng,
Trung Đỗ


Canada 2018.01.05
Kính thưa Quí vị,
Tóm tắt ngắn gọn, Bát Chánh Đạo gồm có:
-      Chánh kiến là kiến thức thấy biết đúng, hiểu rõ vô thường, nhân quả.
-      Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, không trái với chân lý và lẽ phải.
-      Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không nói những lời thô ác, dối gạt.
-      Chánh nghiệp là hành vi chân thật, không làm những việc ác nghiệp.
-      Chánh mạng là nếp sống chân chánh, không làm những nghề bất thiện.
-      Chánh tinh tấn là tâm chuyên cần trì giới, tu hành, không lười mỏi.
-      Chánh niệm là tâm hiểu rõ việc đang nghĩ, đang nói và đang làm.
-      Chánh định là tâm bình tĩnh thản nhiên, không còn si mê loạn động.

Kính mời Quí vị tham khảo thêm theo LINK:
Kính thư,
VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA




 

Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí

TKN Thích Nữ Chân Liễu
(15.4.2012)

Mỗi năm Tết đến, nơi nơi hân hoan đón mừng xuân mới, chúc nhau an lành và hạnh phúc. Mùa xuân trở về mang niềm vui đến cho mọi người trên thế gian, trong đó có những người con Phật. Chuông trống Bát Nhã thâm trầm vang lên trong các chùa, mang âm hưởng tỉnh thức cho phút giây đón mừng năm mới. Phút nhập từ bi quán như nhắc nhở tâm từ bi của chư Bồ Tát gởi đến muôn loài và lời cầu nguyện quốc thái dân an, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Mùi hương trầm lan tỏa, như hương xuân cúng dường mười phương chư Phật nhân dịp đầu năm. Nụ cười từ bi của Ðức Phật luôn luôn hiện hữu, tạo cho đạo tràng một không khí ấm áp đầy đạo vị, mặc dù ngoài kia mùa đông Canada, tuyết đang rơi lạnh buốt người.

Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi ngắn là Kinh Pháp Hoa, Chư Tôn Ðức Tăng Ni hướng dẫn Phật tử đọc tụng vào dịp đầu năm, là cầu mong tứ chúng vui xuân an lành trọn vẹn và được nhiều hạnh phúc trong năm mới.

Trong phẩm Phổ Môn, có đoạn:

“Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì thương xót hàng tứ chúng cùng Trời Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và không phải người. Liền khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm chia Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí làm hai phần: một phần dâng Đức Phật Thích Ca, một phần dâng Đức Phật Ða Bảo”.

Quán Thế Âm nghĩa là quán sát âm thanh từ thế gian phiền não, chuyển hóa thành ý thức lắng nghe mầu nhiệm nơi tâm giác ngộ, để tùy duyên cứu độ nhân gian. Nếu hiểu được ý nghĩa vô cùng thậm thâm vi diệu của Phẩm Phổ Môn và hạnh nguyện từ bi cao thượng của Bồ Tát Quán Thế Âm, con người sẽ không rơi vào tà kiến si mê và khai mở trí tuệ bát nhã. Với trí tuệ bát nhã, người phát tâm tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm hằng sống với lục độ ba la mật, và luôn giữ tâm trong bát chánh đạo, ví như những chuỗi hạt châu ngọc quí giá chiếu sáng nối kết nhau không rời, cho đến khi giác ngộ viên mãn.

* Lục độ ba la mật gồm có:
-       Bố thí là dùng vật chất, chánh pháp giúp đỡ và an ủi người.
-       Trì giới là giữ giới thanh tịnh trong mọi ý nghĩ lời nói và hành động .
-       Nhẫn nhục là kham nhẫn và cam chịu dù bị khinh khi hoặc gặp khó khăn.
-       Tinh tấn là cố gắng vượt mọi thử thách, giữ tâm chí vững bền.
-       Thiền định là tâm an nhiên tự tại, không não loạn trong mọi hoàn cảnh.
-       Trí tuệ là nhận thức sáng suốt đưa đến giác ngộ, không còn si mê.

*Bát chánh đạo gồm có:
-   Chánh kiến là kiến thức thấy biết đúng, hiểu rõ vô thường, nhân quả.
-   Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, không trái với chân lý và lẽ phải.
-   Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không nói những lời thô ác, dối gạt.
-   Chánh nghiệp là hành vi chân thật, không làm những việc ác nghiệp.
-   Chánh mạng là nếp sống chân chánh, không làm những nghề bất thiện.
-   Chánh tinh tấn là tâm chuyên cần trì giới, tu hành, không lười mỏi.
-   Chánh niệm là tâm hiểu rõ việc đang nghĩ, đang nói và đang làm.
-   Chánh định là tâm bình tĩnh thản nhiên, không còn si mê loạn động.

Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì lợi lạc của chúng sinh, và đem cúng dường Ðức Phật Thích Ca, nghĩa là cúng dường Giáo Pháp giải thoát tối thượng; và cúng dường Đức Phật Ða Bảo, nghĩa là cúng dường Phật Tánh thanh tịnh sáng suốt.
                                            
Cúng dường Ðức Pht Thích Ca:

Ðức Phật Thích Ca là một vị Phật lịch sử. Giáo lý của Ngài trong sáng như vầng nhật nguyệt, giúp cho người tu theo hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm, kinh Pháp Hoa, còn gọi là Hành Giả Pháp Hoa, giác ngộ tri kiến Phật. Ngài chỉ dạy vô vàn pháp môn tự giải thoát sự trói buộc của phiền não, tự giác ngộ chân lý vượt trên mọi tín ngưỡng dân gian. Phần nhiều mọi sự khổ não xuất phát từ tâm tham sân si, tâm tưởng tượng cố chấp, hay tâm lo buồn sợ hãi. Con người thường hay lo lắng, buồn rầu, sợ nghèo, sợ đói, sợ khát, sợ bịnh, sợ già, sợ chết, sanh ly tử biệt. Tưởng tượng, cố chấp, lo sợ càng nhiều, thì dễ sanh tâm sân hận, hung ác, việc tội lỗi gì cũng dám làm. Người tu theo Phật muốn giải thoát sự khổ não trong cuộc đời, nên phát tâm hành trì tinh tấn giáo pháp của Đức Phật giảng dạy, sống trong bát chánh đạo, trí tuệ khai mở, thấu hiểu được chân lý nhân quả. Con người sẽ hưởng được pháp vị an lạc vô biên.

      Tham ái sanh ưu tư                   
      Tham ái sanh sợ hãi                  
      Ai giải thoát tham ái                   
      Không ưu, không sợ hãi.
            (Kinh Pháp Cú)    

      Tâm từ thắng nóng giận
      Tâm thiện thắng ác hung
      Tâm thí thắng tham lam
      Tâm chơn thắng dối trá.
            (Kinh Pháp Cú)

Hành Giả Pháp Hoa thực hành tự lợi và lợi tha, luôn luôn hành trì lục độ ba la mật, với lòng từ bi chân thật vì lợi ích chúng sinh mới có thể xả thân cứu độ tha nhân, còn gọi là “vô ngã vị tha”, hay “quên mình vì người”. Tâm hạnh Bồ Tát đạo ví như trân bảo quí giá hiếm có, cũng là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí cúng dường Đức Phật Thích Ca thù thắng nhất.

Cúng dường Đức Pht Ða Bảo:

Ðức Phật bên trong Tháp Ða Bảo hiện ra trên hư không, chính là hình ảnh tiêu biểu cho tri kiến Phật, cũng là Chân tâm hay Phật tánh, tức là trí tuệ bát nhã tự thân, không dính mắc với chuyện đối đãi, thị phi, nguyên nhân gây nên phiền não khổ đau của thế gian. Do đó, con người muốn được giải thoát  nên phát tâm tu hành hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát là tâm từ bi cứu giúp nhân loại, tâm hoan hỷ làm tất cả công đức và phước đức, mà không chấp có công đức và phước đức, đó chính là tâm xả. Bồ Tát không có tâm tự mãn, không có tâm mong đợi sự tán thán ngợi khen, nghĩa là Bồ Tát có tâm phá chấp và vô trụ, tức là “vô ngã vị tha” tuyệt đối.

Ðức Phật dạy: “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Trên thế giới, với tự tánh thiện lành sẵn có, nhiều người tự nguyện đến những nơi chiến nạn, đói nghèo, bịnh tật, thiên tai. Với tâm từ bình đẳng bố thí tài vật và lòng bi mẫn không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, họ dùng bàn tay khéo léo dịu dàng và tài năng sẵn có, xoa dịu nỗi thống khổ cho nhân loại. Chính họ là những người hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, quên mình vì người, nghe theo tiếng kêu cứu khổ đau của thế nhân và hiện thân cứu giúp. Cũng có người tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm một cách nghiêm mật, giải bày, giảng nói Chánh Pháp vô ngại, đem ánh sáng trí tuệ Phật Pháp cho mọi người. Đó chính là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí giá trị hơn trăm nghìn lạng vàng, xứng đáng đem cúng dường Đức Phật Ða Bảo vi diệu vô cùng. 

Bồ Tát Quán Thế Âm là hình ảnh biểu hiện tượng trưng của sự cứu độ giải thoát về mặt tâm linh, thuộc lãnh vực tâm tánh và ý thức của Bồ Tát hạnh, thực hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vị thần quyền linh thiêng có thể ban phước hay thỏa mãn hết sự cầu khẩn van xin do mê tín và lòng tham ích kỷ của thế gian như nhiều người tưởng tượng. Thâm nghĩa của hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm là sự thanh tịnh cao thượng của tâm từ bi hỷ xả. Mọi người đều tự có khả năng đoạn tận phiền não, phá trừ tâm ô nhiễm của tham sân si và khai mở trí tuệ, phát tâm từ bi hỷ xả lợi tha tuyệt đối, thực hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn cho đời.

Hiểu rõ chân lý nhân quả, con người tự làm chủ bản thân từ sự suy nghĩ, đến lời nói, và hành động; sống không ỷ lại sự cứu rỗi, van xin, không còn tâm mong cầu, chờ đợi sự huyền bí linh thiêng hay phép lạ đến từ bên ngoài. Phép lạ chính là sự chuyển hóa nội tâm, chuyển hóa phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau thành an lạc. Cầu xin nhiều thất vọng nhiều. Nếu như cầu gì được nấy sẽ tăng trưởng lòng tham lam và ích kỷ. Còn nếu cầu không được gì cả, chính là con đường dẫn đến đau khổ triền miên không lối thoát. Cầu bất đắc thì đương nhiên là khổ! Nếu như không được những gì mong muốn thì hãy vui với những gì đang có, con người ít mong cầu, ít đòi hỏi, thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ, thì thân tâm được an ổn tự tại.                
      
                                    Ða dục vi khổ
                                    Sanh tử bì lao
                                    Tùng tham dục khởi
                                    Thiểu dục vô vi
                                    Thân tâm tự tại.      
                                                (Kinh Bát Ðại Nhân Giác)
                 
Như lòng cha mẹ thương con, dạy cho con nhân nghĩa, dạy tri thức sống chân chính, chứ không tùy theo ý muốn vô minh dại khờ của con trẻ mà ban cho tất cả; đó là hại chứ không phải thương. Tình thương trong đời cũng cần phải sáng suốt và cân nhắc, lòng từ mẫn của tâm hạnh Bồ Tát thương tất cả chúng sanh không bỏ ai, nhưng chân lý thuộc về nhân quả không thay đổi. Chư Phật và Chư Bồ Tát cứu độ chúng sanh là dạy làm lành tránh dữ, gieo hạt giống từ bi sẽ nhận hoa trái từ bi, tạo hạnh phúc cho người sẽ nhận kết quả hạnh phúc cho mình.

Trì niệm hồng danh của Bồ Tát Quán Thế Âm mang ý nghĩa nhắc nhở chúng sanh trở về trí tuệ sáng suốt giác ngộ của Phật tâm, Phật tánh tự thân. Khi nếm được Hương Vị Phật Pháp, còn gọi là Pháp Vị, con người sẽ mạnh dạn dứt bỏ lòng tham lam sân hận si mê, và dẹp tan được nạn nước lửa, dao gậy, xiềng xích, phá trừ tâm ma và trị tận gốc nghiệp ác. Đó là sự tiêu diệt các nguyên nhân sanh đau khổ triền miên từ trước đến giờ.

. Nạn lửa: Niệm Quán Âm để bỏ lòng sân hận, nóng giận tiêu diệt, lửa tắt.
. Nạn nước cuốn: Niệm Quán Âm để bỏ lòng tham dục, nước tham ái tự khô kiệt.
. Nạn dao gậy: Niệm Quán Âm để bỏ lòng si mê, dao gậy không làm hại được.
. Nạn xiềng xích:  Niệm Quán Âm để bỏ lòng bất chánh, xiềng xích không trói buộc.
. Nạn quỷ la sát: Niệm Quán Âm để bỏ lòng hung ác, ác tâm tự điều phục.

Có câu chuyện đáng suy ngẫm như sau:

Theo thông lệ các chùa mỗi tháng thường tổ chức thọ bát quan trai giới một ngày một đêm, giới tử về tham dự rất đông, có khi không còn chỗ để nghỉ đêm, ngoại trừ phòng thờ linh vị. Không ít lời đồn đãi về chuyện hiển linh, hay linh ứng của các người đã mất, linh vị được thờ trong chùa, vì vậy phòng thờ này vẫn thường trống. Với tâm ích kỷ, tinh thần yếu đuối, con người sẽ dễ bị nhiễu loạn bởi những lời đồn vô căn cứ, sanh tâm sợ sệt vu vơ. Người biết cách tu, khi thọ bát quan trai, với lòng thanh tịnh, khởi tâm từ bi, thương xót tất cả chúng sinh dù ở cảnh giới nào và phát nguyện rằng: “Công đức và phước đức trọn một ngày một đêm thọ bát quan trai hôm nay, xin tâm nguyện hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sinh, cùng chư vong linh ký tự tại chùa, đều được giác ngộ Chánh pháp và trọn thành Phật đạo”. Khi khởi tâm từ bi thanh tịnh, tương ưng với tâm Chư Phật, với tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, giới tử thọ bát quan trai không còn tâm ma hay tâm sợ hãi nữa. Tâm thiện sẽ giúp người biết tu có một giấc ngủ thật an lành, dù ở bất cứ nơi đâu, và trong bất cứ cảnh ngộ nào.

Tóm lại, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là pháp tu cao quí lợi lạc cho thế gian, tạo phước đức đạo tâm cho người, đem lại ánh sáng giác ngộ chân thật cho chúng hữu tình. Trước giờ phút Ðức Phật Thích Ca chứng đạt toàn giác viên mãn, ma quỉ dạ xoa dùng mọi vũ khí tham ái quyến rũ ngăn cản, nhưng nhờ định lực cao siêu, Ðức Phật an nhiên tự tại tâm không dao động. Hơn nữa, Ngài phát khởi từ bi tâm, thương xót hóa độ, thu phục tâm ma, binh khí biến thành hoa tươi cúng dường và sau đó Đức Phật chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lòng tôn kính cúng dường Chư Phật, Chư Bồ Tát không chỉ là vật chất thế gian, mà là giá trị nhân cách ở đời, là tâm từ bi hỷ xả hành đạo, tu hạnh thanh tịnh, tinh tấn trì giới, đạt được trí tuệ bát nhã viên mãn. Đó chính là “Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí”, “vô ngã vị tha”, “quên mình vì người” cúng dường bình đẳng thập phương chư Phật và chư Bồ Tát một cách cao quí tối thượng nhất. []                                                                                          
                                                                                
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật                   
TKN Thích Nữ Chân Liễu
(Toronto, Canada)







On Wednesday, December 30, 2015 2:27 AM, alice dupond aliced012014@gmail.com wrote:
Thưa ông thầy T.Chân Tuệ
Để trả lời cho câu hỏi: Con heo ngu dại là bình thường tu sĩ ngu đần thì ra sao?
According to me: Con heo ngu dại là bình thường tu sĩ ngu đần là tệ hơn con heo...!!!
ALICE

---------- Forwarded message ----------
From: alice dupond
aliced012014@gmail.com
Date: 2015-12-12 17:08 GMT+01:00
Subject: Fwd: Thưa Thầy, thế nào một vị chân tu? Làm sao nhận định, đánh giá, biết được?
To: VP.PHTQ.CANADA
cutranlacdao@yahoo.com


Thưa thầy Thích Chân Tuệ
Con heo ngu dại là bình thường tu sĩ ngu đần thì ra sao thưa thầy?!

A.
1 tu sĩ không giữ được 5 giới căn bản của người phật tử, thì không phải là minh sư!
Trước khi kiếm minh sư, phật tử nên đọc để hiểu kha khá triết lý nhà phật...!
ALICE


 

Thế nào là một vị Chân Tu?
Thế nào là một vị Chân Tu?
Thế nào là một vị Chân Tu?

Hỏi:
Thưa Thầy, thế nào một vị chân tu?
Làm sao nhận định, đánh giá, biết được?

Đáp:
Đây là một vấn đề tế nhị, rất sâu rộng, khó giảng giải. Nơi đây bài viết nêu lên những nét đơn giản, khái quát.

Theo quan niệm Phật giáo, một vị chân tu là người thực tâm tu học, hành đạo chân chánh, hiền lương đạo đức. 

Muốn nhận định, biết được, hay đánh giá một vị chân tu, bản thân người này phải chân thực nắm vững chánh pháp, hiểu rõ thế nào là tu tập và hành đạo, nhất là phải tiếp xúc và thân cận lâu dài.

Chân tu không hẳn phải là vị tu trong chùa lâu năm, danh tiếng, nắm giữ các chức vụ cao, đệ tử đông, chùa to tượng lớn. Chân tu có thể ở nơi vắng vẻ tĩnh mịch hay ở nơi phố thị ồn ào để hoằng pháp độ sanh, tùy theo tâm nguyện và năng lực tu hành. 

Đạo tràng của vị chân tu có thể là các nơi tu viện yên tịnh, trang nghiêm, cũng có thể là nơi nhiều phiền não.
Và cuối cùng, vị chân tu có thể mang cả hai hình tướng: xuất gia hay tại gia.

Nhiều vị tu sĩ già nua tuổi tác ở chùa lâu năm lên chức lão làng, được người tán tụng là tùng lâm thạch trụ, thực chất chỉ là một đứa nhỏ 7 tuổi bị quăng vô chùa, do chiến nạn hay nghèo đói. Lớn lên ra đời không được vì ngu dốt, các đứa nhỏ này không học sách đời, lười học sách đạo, không siêng tu hành, tranh danh đoạt lợi, giành giựt địa vị, mê tín dị đoan, tỏ vẻ như ta đây chứng đạo, gạt gẫm bá tánh, mưu cầu lợi dưỡng. Một vài tổ chức thiền môn gặp phải mấy đứa nhỏ này quậy phá cho nát tan luôn.

Chuyện đời như chuyện đạo có hai mặt thuận và nghịch. Tu tập theo Phật giáo có thể qua hai giai đoạn: từ bi hỷ xả và giác ngộ giải thoát. Hành đạo theo Phật giáo có thể có hai hình thức: mặc áo cà sa hay mặc áo giấy, tùy cơ ứng biến. 

Nếu vị chân tu nắm giữ nhiệm vụ trụ trì một tu viện hay tự viện thì hành sự theo nghĩa «Trụ trì tức trụ Pháp Vương gia, trì Như Lai tạng». Nghĩa là người nào ở nhà Phật thì phải giữ đúng lời Phật dạy.

Nơi đây cũng nên lưu ý, hiện nay có nhiều kinh điển hay tài liệu nói «đây là lời Phật», nhưng thực ra không phải. 

Vị chân tu phải nắm vững để hướng dẫn bá tánh hiểu rõ hiểu đúng chánh pháp, theo đúng chánh đạo.
Rất nhiều nghi lễ hình thức cúng kiến trong các chùa hiện nay là tà pháp, nhưng thu được quá nhiều lợi dưỡng, nên các tà sư vẫn lan truyền, như một loại bệnh dịch.

Chẳng hạn như: lễ trai đàn bạt độ chẩn tế bình đẳng giải oan thủy lục thập loại cô hồn, lễ vớt vong như vớt bèo trên sông, lễ rãi tro, lễ phóng sanh thực chất là hại sanh. 

Tiếc thay nhiều vị lãnh đạo các giáo hội, các giáo phái xưng là thiền sư có khá đông đệ tử cũng bày trò này.
Thật là lầm lẫn cho người tu theo. Họ ăn mặc sặc sở phi chánh pháp rất dễ nhận ra. Chỉ có những người u mê, tôn thờ sư phụ, nhắm mắt khâm tuân tự thân lạc vào tà đạo, còn lôi kéo thêm khá nhiều người khác.

Đức Phật có dạy:  
Nước đại dương chỉ có một vị mặn. Đạo lý chỉ có một vị duy nhất là giải thoát.  
Do đó tu tập theo Phật, chân tu phải dẹp trừ cả ngã chấp và pháp chấp, 
nói chung thực hành theo những pháp môn, phương thức dẹp trừ bản ngã.

Chân tu là vị tu sĩ hay cư sĩ có khuynh hướng tu tập dẹp trừ bản ngã để thể nhập vào thể tánh chân tánh vắng lặng vô biên, không màng ái dục và lợi danh tầm thường. 

Vị chân tu chưa giác ngộ và giải thoát, chưa tìm được nương tựa cho tâm linh và chưa tự làm ngọn đuốc soi sáng, nên trở thành người đàng hoàng, đứng đắn, mô phạm, đạo đức, sống an hòa trên cuộc đời, nghiêm trì giới luật, tuân thủ các qui tắc, mô phạm và luật pháp của thế gian, không tổn hại ai.

Các vị chân tu phát tâm xuất gia tu hành, phát tâm tu tập tại gia, coi thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế gian thì không quan trọng chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ, nếu có, trong nhà đạo.  Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không, xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, tránh sự tranh cãi.  Nơi đây không bàn đến cách xưng hô của những người không thực sự phát tâm tu tập, hý ngôn hý luận, náo loạn thiền môn, dù tại gia cũng như xuất gia.  Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai. Nhất niệm sân tâm khởi, thiêu vạn công đức lâm, chính là nghĩa như vậy.

Đừng nghĩ hễ là chân tu thì phải nổi tiếng hoặc vị nào nổi tiếng thì phải là chân tu.
Người u mê ham danh tiếng hão nên không nhìn ra được những vị chân tu rất bình dị,  chơn chất, giản dị, không chùa chiền, không phép lạ, chẳng tiếng tăm, không bằng cấp, hay danh vọng gì cả.

Không có thứ thước đo nào của thế gian có thể lượng định được chân giá trị của một bậc chân tu. Muốn nhận chân giá trị của một người tu, vị đó phải là bậc chân tu giác ngộ, đắc đạo. Muốn đánh giá, chấm điểm thí sinh, vị đó phải là giáo sư giám khảo, năng lực hơn hẳn, vượt trội thí sinh kia.

Chỉ có chìa khóa duy nhất, tinh thần vô ngã vô úy, đức Phật dạy từ hơn hai ngàn năm trước, là có thể mở ra cho người môn đệ nguồn hứng cảm vô tận của sự giải thoát và giác ngộ. Vị chân tu phải là người bát phong suy bất động. Những người thân cận bậc chân tu cảm nhận sự bình an trong nội tâm và tinh tấn trong sự tu tập.

Tuy nhiên, phân biệt giửa vị chân tu và kẻ giả tu hay tu giả, cần phải có thời gian. Nhiều người xuất gia học đạo với một vị thầy, tưởng đâu là chân tu, đạo cao đức trọng, qua tuổi tác già nua, chùa to tổ đình lớn, danh vọng thế lực, nhưng sau một thời gian dài thân cận, nhận chân sự thật, đành phải ra đi, có lời từ giả hoặc không.

Có vài tiêu chuẩn tối thiểu và căn bản để nhận xét một vị chân tu, chẳng biết đúng hay không. Chẳng hạn như:

Có những người tu lâu năm, thường đi chùa, niệm Phật, ăn chay, ngồi thiền, theo học giáo lý với nhiều vị thầy nổi tiếng, nhưng chẳng biết đức Phật dạy điều gì.

Có những người tu chỉ thích đến chùa làm công quả, hoặc thích tạo chùa to, tượng lớn, nhưng không hiểu chánh pháp.

Có những người tu ham thích có nhiều chùa, đông đệ tử, nhưng không dạy dỗ gì cả.

Có những người tu thích học lấy nhiều bằng cấp thế gian, không hề học chánh pháp.

Có những người tu thích bản thân được nổi tiếng, không thích kẻ khác nổi tiếng.

Có những người tu ham tài sản, danh lợi, sắc dục, luôn kêu gọi cúng dường.

Có những người tu còn dễ nổi sân, giận dữ, bực tức khi gặp chuyện trái ý, luôn chê trách người khác quá động.

Có những người tu kiêu căng ngã mạn, thích khoe khoang, điều khiển kẻ khác, thích được khen ngợi, tâng bốc, không thích kẻ khác hơn mình.

Có những người tu chấp vào thầy của tôi, hay pháp môn của tôi là hay hơn hết, tâm tư hẹp hòi, ưa chia rẽ, bè phái, thích tu tướng chẳng biết tu tâm.

Có những người tu học hay đọc nhiều kinh sách, hiểu biết giáo lý, nói đạo rất hay, không biết làm phước, bố thí, keo kiệt, bỏn sẻn, bo bo bám chặt vào tài sản, tiền bạc của mình.

Có những người tu học đạo lâu năm, không nói lời ái ngữ, không giữ gìn khẩu nghiệp, ăn nói xả láng, chê bai, chỉ trích, vu khống, bịa đặt, phỉ báng kẻ khác, kẻ khác không được đối đáp.

Có những người tu thích kẻ khác khiêm cung và lễ độ, cái ngã của kẻ khác phải nhỏ dần và kẻ khác phải biết cung kính tôn trọng bản thân như là các bậc tôn túc, bậc trưởng thượng, bậc đại lão.

Có những người tu thích các danh xưng đại sư, đạo sư, tăng giáo trưởng, pháp sư niên trưởng, thiền sư, vô thượng sư, hòa thượng, thượng tọa, đại đức, dù tư cách không hơn chú tiểu.

Tóm lại, vị chân tu người phát huy được tính chất tam bảo của bản tâm: sáng suốt, chân chánh và thanh tịnh.

VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA



Nhiều người xuất gia học đạo với một vị thầy, tưởng đâu là chân tu, đạo cao đức trọng, qua tuổi tác già nua, chùa to tổ đình lớn, danh vọng thế lực, nhưng sau một thời gian dài thân cận, nhận chân sự thật, đành phải ra đi, có lời từ giả hoặc không.
Có những người tu thích các danh xưng đại sư, đạo sư, tăng giáo trưởng, pháp sư niên trưởng, thiền sư, vô thượng sư, hòa thượng, thượng tọa, đại đức, dù tư cách không hơn chú tiểu.
Họ ăn mặc sặc sở phi chánh pháp rất dễ nhận ra. Chỉ có những người u mê, tôn thờ sư phụ, nhắm mắt khâm tuân tự thân lạc vào tà đạo, còn lôi kéo thêm khá nhiều người khác.
Thích Nhất Hạnh (Việt Nam)
Thích Thắng Hoan (USA)
Thích Thắng Hoan (USA)
Thích Như Điển (Germany)

 Thích Như Điển (Germany)


Thích Bổn Đạt (Canada) - Thích Thông Hải (USA)
Thích Huyền Tôn (Australia)

Thích Tín Nghĩa (USA)
Thích Trí Quảng (Việt Nam)