TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Saturday 28 April 2018

Vấn đề Ăn Chay Hay Ăn Mặn



Vấn đề Ăn Chay Hay Ăn Mặn
From: Điền Phú phudien2211@gmail.com
To: VP.PHTQ.CANADA cutranlacdao@yahoo.com
Sent: Friday, April 27, 2018, 11:55:45 PM EDT
Subject: ăn chay

Adidaphat !
Bạch Thầy, dạo gần đây con có hay đọc kinh, sau một hồi, thời gian này con tự nhiên thấy không còn muốn ăn mặn nữa Thầy ạ!
Bây giờ mỗi khi nhìn thấy đồ mặn con lại tự nhiên thấy rất ái ngại hay thấy hơi sợ khi định ăn các món đó Thầy ạ! 
Bây giờ hàng ngày con đang tìm cách chế biến hay tìm các đồ chay để ăn và trong thời gian tới con hy vọng sẽ cùng gia đình con bớt dần được việc ăn mặn Thầy ạ!
Đôi dòng tâm sự của con,hy vọng không làm mất thời gian vàng ngọc của Thầy.
Con kính chúc Thầy thật nhiều sức khỏe ạ! 
con Minh chào Thầy


 
Vấn đề Ăn Chay Hay Ăn Mặn

Kính mời quí vị tham khảo theo LINKs:

Phật giáo Nguyên Thủy cho rằng:
chính Đức Phật không đặt thành vấn đề ăn chay hay ăn mặn.
Sự giải thoát không phải do nơi ăn,
mà do nơi thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý.
Ăn chay mà thân không thiện, khẩu không lành, tâm ý gươm đao,
giới luật không giữ, thì sao gọi là chay.
Đức Phật cùng các đệ tử đều ăn theo truyền thống khất thực.
Ăn để mà sống, để hành đạo
chứ không phải:
sống để mà ăn, để thụ hưởng.
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
 
Thắc mắc: Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng người Phật tử phải ăn chay?

Giải Đáp:
Giả sử có người kia trường chay rất nghiêm chỉnh mà
ích kỷ, gian dối, bất lương và đê tiện,
và một người khác
không ăn chay mà biết lo nghĩ đến kẻ khác, chân thật, liêm khiết, quảng đại và hiền lương.
Trong hai người ấy, người nào là Phật tử tốt hơn?
Người chân thật và hiền lương.

Thắc mắc: Tại sao?

Giải Đáp:
Bởi vì người như thế đó hiển nhiên là có tâm địa tốt.
Đúng như vậy.
Người ăn thịt cá cũng như người ăn rau đậu đều có thể có tâm trong sạch,
mà cũng có thể có tâm nhơ bẩn.
Trong giáo huấn của Đức Phật, điều quan trọng là phẩm chất của tâm, chứ không phải là loại thức ăn.
Có những người Phật tử rất thận trọng, không bao giờ ăn thịt cá,
nhưng ít bận tâm tự xét mình có ích kỷ, thiếu chân thật, hung tợn hay ganh tỵ hay không.
Thay đổi thức ăn không khó, nhưng sửa đổi tâm tính là việc khó làm,
nên thường hay bị hờ hững lãng quên.
Vì vậy, cho dù ta ăn chay hay không, con người nên chuyên lo
tu tâm chuyển tính.
Nên nhớ rằng:
Điều tối quan trọng trong Phật giáo là thanh lọc tâm, làm cho tâm trở nên trong sạch, thanh tịnh.
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
 
ĂN CHAY HAY ĂN MẶN
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ

Thời gian qua mau, năm ta sắp hết, tết ta sắp đến.  Mọi người chúng ta, nhất là những người, đang sống tha hương, thảy đều nôn nao, chuẩn bị ăn tết, đón xuân năm mới, dù là mùa xuân, trong tiết giá lạnh, ở nơi xứ người, lại càng thắm thía, nhớ tết quê hương, biết là bao nhiêu!  Ngày tết nguyên đán, phong tục tập quán, quen thuộc từ xưa, ở trong đó có, thói quen ăn chay, trong ngày đầu năm, mùng một tết ta, hay ba ngày tết, cầu phước trọn năm, dù là Phật tử, hay không Phật tử.

Trước đây không biết, kinh sách nào ghi, điều này hay không, người ta giải thích: ngày tết vui chơi, nơi nơi mở hội, có nhiều thức ăn, hấp dẫn đặc biệt, dĩ nhiên đó là, các thức ăn mặn, thường ngày vẫn dùng, người nào
"nhịn" được, lại chịu ăn chay, ngày một ngày hai, phải có phước báu, đặc biệt không sai. Tuy nhiên nhiều người, không quen ăn chay, nhưng cũng phát tâm, trong ngày mùng một, nhưng ráng thức khuya, ngồi chờ đồng hồ, điểm sang mùng hai, bày ra ngã mặn!

Việc ăn việc uống, trong cuộc sống này, chính là vấn đề, lưu tâm hàng đầu.  Nếu như con người, không cần ăn uống, chắc là trên đời, không chuyện tranh cãi, đấu tranh giành giựt, không có chiến tranh, thế giới thanh bình, cuộc sống nhân loại, vui tươi hạnh phúc.  Nhân dịp ăn tết, chúng ta thử bàn, qua việc ăn chay, hay là ăn mặn, để hiểu cho rõ, chủ trương đạo Phật, trong vấn đề này, ngõ hầu đem lại, lợi ích thiết thực, ngay trong đời sống. 

Trong phạm vi đạo Phật, việc ăn chay hay ăn mặn thường gây thắc mắc, tranh luận đúng sai, nên hay không nên, cho khá nhiều người. Ăn mặn là từ ngữ chỉ việc ăn uống thông thường, bình thường, thường nhựt của bất cứ người nào trên thế gian, không quan hệ với bất cứ sắc tộc, văn hóa, phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng nào.  Nói một cách khác: Ăn mặn có nghĩa là ăn tất cả các loại thực phẩm có thể ăn được, trên trái đất này, bao gồm thịt động vật, trứng, sữa, và các loại thực vật, rau cải trái cây.

Ăn chay là từ ngữ có nhiều nghĩa khác nhau, tùy theo địa phương, phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng. Có nơi, ăn chay có nghĩa là: không ăn thịt heo, hay cữ thịt bò. Có nơi, ăn chay có nghĩa là: không ăn các loại thịt động vật sống trên mặt đất, nhưng có thể ăn các loại thịt sinh vật sống ở dưới nước.  Theo đạo Phật, nói một cách đơn giản, ăn chay có nghĩa là: ăn tất cả các thức ăn, thực phẩm không có liên quan đến mạng sống của chúng sinh.  Nhiều người hiểu lầm chữ ăn chay là ăn trai.

 Ăn trai là bửa ăn theo giờ giấc. Thí dụ: ngọ trai là bửa ăn theo giờ ngọ, trai đường là nơi dùng các bửa ăn theo giờ giấc qui định, không ăn phi thời.  Nói chung, ăn chay có hai lý do chính: Một là, vì lý do phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng; hai là, vì lý do sức khỏe.
Theo các nhà dinh dưỡng học, muốn có một cuộc sống đầy đủ sức khỏe, muốn có đủ năng lực hoạt động trong cuộc đời, chúng ta phải lưu tâm đến việc ăn uống điều độ, và đầy đủ chất dinh dưỡng.
Sách có câu: "Tinh thần minh mẩn trong thân thể tráng kiện". 

 Chúng ta thường được chỉ dẫn, nên theo một chế độ ăn uống thích hợp, với bao nhiêu phân lượng chất đạm, chất xơ, chất bột, chất béo, chất ngọt, chất khoáng, chất vôi, chất sắt, chất nước, và các loại sinh tố, trong một ngày, để cơ thể có đủ năng lượng hoạt động, một cách tốt đẹp, và sống lâu trăm tuổi, một cách khỏe mạnh.

Theo các báo cáo khoa học, rau cải, ngũ cốc, hoa quả, thực vật, cũng đầy đủ chất dinh dưỡng cho sức khỏe, cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, trong đời sống của con người. Các người ăn chay vẫn sống khỏe sống thọ, không khác những người ăn mặn. Trong số các thú vật, như con voi, con tê giác, con trâu, con bò, con ngựa, là những con thú ăn thực vật, thảo mộc, nhưng rất khỏe mạnh, không khác các loài thú ăn thịt, như sư tử, cọp, gấu, beo. 

 Ăn chay có ích lợi cho sức khỏe, như dễ tiêu hóa hơn, ít gây bệnh tật hơn.  Trên thế giới ngày nay, tây phương cũng như đông phương, số người ăn chay vì lý do sức khỏe, theo khuyến khích của giới y sĩ, ngày càng nhiều hơn, và số người ăn chay vì lý do tín ngưỡng, cũng gia tăng nhiều hơn.  Những người ăn chay, vì lý do sức khỏe, cũng như lý do tâm linh, thường hiền lành hơn, ít náo động hơn, tâm tánh dễ dãi hơn, nhưng vẫn sinh hoạt bình thường, như bao nhiêu người khác. Những người chung quanh thường cảm thấy an tâm hơn, khi sống gần gũi người ăn chay hiền lành.  Những con thú chỉ ăn thực vật thảo mộc, không bao giờ sát hại các sinh vật khác, không gây sợ hãi cho các loài vật sống gần bên.

Ăn chay thuộc phần tu tướng, bên ngoài.  Nếu những người phát tâm ăn chay, vì lòng từ bi, không cứ phải là người theo đạo Phật, thường cảm thấy an vui lợi lạc, và nhẹ nhàng hơn, dễ cảm thông với các loài sinh vật khác, và yêu mến thiên nhiên hơn, cảm nhận được vũ trụ vạn vật đều đồng nhứt thể.  Đó là phần tu tâm, bên trong.  Tu theo đạo Phật cần hội đủ hai phần: tu tướng và tu tâm.

Tại sao chúng ta nên ăn chay?  Người tu theo đạo Phật có nhất định ăn chay hay không?

Như trên chúng ta đã biết, ngoài những ích lợi về phương diện sức khỏe thể chất, ăn chay trong đạo Phật còn có những ích lợi về phương diện tâm linh, mục đích cốt yếu là: "Tránh nghiệp sát sinh và trưởng dưỡng tâm từ bi".  

Người tự nguyện phát tâm ăn chay vì tâm từ bi vô lượng, coi muôn loài như bản thân mình, không thích giết hại một sinh vật nào, không muốn nhìn thấy một sinh vật nào đau khổ, để thỏa mãn dục vọng của con người.  Ăn chay còn tạo phước, vì nhờ đó giúp cho các sinh vật thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng, sống bị giam cầm khốn khổ, đầy đọa trong địa ngục trần gian, chờ ngày giờ chết đớn đau. Lòng từ bi của những người ăn chay, biết thương yêu loài người, lan rộng đến các loài sinh vật. Họ hiểu biết rằng các loài sinh vật đều ham sống sợ chết, đều bình đẳng trước sự đau khổ, khi bị sát hại, cũng như loài người, không khác. 

Không phải ăn chay, may ra thành Phật! Hoặc là ăn chay, với tâm mong cầu: được sống khỏe hơn, tuổi thọ lâu hơn, được lên thiên đàng, hưởng phước đời đời, mời về cực lạc, đạt được ước mơ!  Tại sao như vậy? Bởi vì nên biết: con trâu con bò, con lừa con ngựa, chỉ vì nghiệp báo, cũng là ăn chay, chỉ biết ăn cỏ, không ăn thịt được, thế nhưng đời sống, khốn khổ khốn nạn, biết là bao nhiêu!  Càng không phải là: cố gắng ăn chay, tính hay khoe khoang, khắp cả xóm làng, mang lòng kiêu ngạo, tạo bao khẩu nghiệp, rủa xả dè bỉu, phỉ báng tàn mạt, những người chưa biết, tại sao ăn chay, hoặc là những người, chưa thể ăn chay, bởi nhiều lý do. Cũng không phải là: ăn chay cầu danh, muốn được mọi người, tán thưởng khen ngợi. Người ăn chay trường, khinh người chay kỳ, người ăn chay kỳ, khi người không chay.

Tâm của những người như vậy chưa thanh tịnh, còn quá loạn động, lăng xăng lộn xộn, còn thích hơn thua, mua danh kiếm tiếng, khiến người không ưa, ngay trong đồng đạo, đồng môn đồng bào, cả với đồng loại, thử hỏi làm sao, có thể gặp Phật, có thể thành Phật?  Con người đến với đạo Phật vì Chánh pháp vi diệu thậm thâm là người có trí tuệ.  Chánh pháp có thể giúp đỡ con người giác ngộ, thoát ly sanh tử luân hồi, thanh tịnh hóa tâm trí, thân an tâm lạc, đạt được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời, chứ không phải đạo Phật đơn thuần chỉ là đạo ăn chay.

Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Muốn học đạo Vô Thượng Bồ Ðề, chẳng nên khinh dể hàng sơ học.  Có kẻ dưới bực thấp mà thường phát sinh trí tuệ rất cao, cũng có người trên bực cao mà thường chôn lấp lý trí của mình. Nếu khinh dể người, ắt có tội vô lượng vô biên". 

 Trên thế gian này, không ai hơn ai cả! Tất cả mọi người với chư Phật bình đẳng, không khác, con người chỉ khác ở chỗ mê ngộ không đồng, nghiệp báo khác nhau, cho nên hình tướng bên ngoài của con người khác nhau.  Ðây chính là ý nghĩa của lời Ðức Phật dạy trong Kinh Hoa Nghiêm: "Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh".  Nghĩa là: Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh, còn gọi là  tánh giác.  Kinh sách thường dạy: Phật và chúng sanh tánh thường rỗng lặng, chính là nghĩa như vậy. 

 Người nào có tâm cố chấp, bất cứ thứ gì xảy đến, đều gây phiền não khổ đau.  Khi nào họ thức tỉnh, xả bỏ tâm cố chấp, tức nhiên được giác ngộ, giải thoát khỏi những phiền não khổ đau, sống được trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc, mặc dù cảnh đời vẫn tiếp tục còn nhiều bất trắc, sóng gió, và thăng trầm.

Có người ăn chay, thường hay đối xử, với người chung quanh, gần như vợ chồng, ông bà cha mẹ, anh em con cháu, xa hơn một chút, hàng xóm láng giềng, đồng nghiệp đồng môn, nói chung đồng loại, nhân loại loài người, một câu lỡ lời, thì họ nhứt định, không chịu bỏ qua, thứ tha lỗi người. Họ rất sẵn sàng, thưa gửi kiện tụng, vu khống cáo gian, đặt điều thêm bớt, bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu, làm cho người khác, te tua tơi tả, tan tành hoa lá, khốn khổ khốn nạn, họ mới thỏa mãn, hả dạ hài lòng, mới thiệt vừa ý!  Một câu nói của họ đủ khiến cho người khác chóng mặt nhức đầu, xức dầu cù là, hoặc là cạo gió, ngất xỉu hụt hơi, có người hết thở, bị đuổi sở làm!  Họ rất sẵn sàng, loại bỏ đồng môn, khai trừ đồng đạo, ám hại đồng bào, cào nhà đồng nghiệp, chỉ vì đồng tiền, liền bên núm ruột!

Thực vậy, vì con người không có tâm từ bi thực sự, trong đạo cũng như ngoài đời, miệng thì nói tiếng nam mô, trong lòng chứa cả một bồ dao găm, con người còn ám hại con người, con người còn ganh tỵ đố kị con người, con người còn muốn thấy người khác đọa địa ngục, vì không cùng tôn giáo, không cùng môn phái, không cùng pháp tu, không đồng quan điểm, vấn đề nào đó, thử hỏi làm sao, có thể ban vui, cứu khổ muôn loài!  Thói thường trên đời, trong đạo không khác, kẻ mạnh hiếp yếu, người có thế lực, chèn người cô thế, kẻ giàu tiền của, đàn áp các người, nghèo khó khốn cùng, cá lớn nuốt bé, lấy thịt đè người, cười người sơ cơ, nằm mơ cực lạc, xuyên tạc người hiền, làm tiền đồng đạo, người vào tu trước, không rước người sau, thử hỏi làm sao, ở thế gian này, trong đạo ngoài đời, có được hòa bình, an vui lợi lạc!

Trong đạo Phật, nói chung, có hai hệ phái: hệ phái nguyên thủy và hệ phái phát triển. Hệ phái nguyên thủy, còn gọi là nam tông, chủ trương giữ y nguyên truyền thống Phật giáo, từ thời nguyên thủy, cho nên quý sư là các vị khất sĩ, mang bình bát đi khất thực, thiên hạ bố thí cúng dường vật thực gì, các ngài dùng như vậy, không chọn lựa. Các ngài vẫn khỏe mạnh, tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo. Ðó là hệ phái truyền từ miền nam nước Ấn Ðộ, sang Tích Lan, Thái Lan, Miến Ðiện, Ai Lao, Cao Miên. Phật giáo ở các quốc gia này đều là quốc giáo. Hệ phái phát triển, còn gọi là bắc tông, truyền từ miền bắc nước Ấn Ðộ, sang Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên và Nhựt Bổn. Khi Phật giáo du nhập vào các quốc gia này, tùy thuận văn hóa sở tại, nên dễ dàng hội nhập một cách hòa bình, và phát triển một cách nhanh chóng trong lòng các dân tộc đó, biến thành Phật giáo địa phương, đem lại an lạc và hạnh phúc cho người dân bản xứ. 

Chẳng hạn như: Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Triều Tiên, Phật giáo Nhựt Bổn, đều có những nét đặc thù, riêng của từng nơi.  Ở các quốc gia này, chỉ trừ Việt Nam có cả hai hệ phái cùng du nhập vào, chư Tăng Ni không đi khất thực, trụ xứ tại một tu viện, hay một ngôi chùa, tự lo việc ăn uống. Cho nên các ngài ăn chay, chỉ nhận cúng dường và dùng các thức ăn, không có liên quan đến mạng sống của các sinh vật. Các ngài vẫn khỏe mạnh, tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo.

Ðiều đó chứng tỏ rằng, vấn đề ăn uống nói chung, ăn chay hay ăn mặn nói riêng, không phải thực sự là vấn đề tối quan trọng trong đạo Phật, cũng không phải là vấn đề trực tiếp liên quan đến sự tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo. Ðiều quan trọng trong đạo Phật chính là: Tâm trí có dính mắc hay không dính mắc cảnh trần.  Nếu tâm không dính mắc, chính là tâm thanh tịnh vậy.

Chư Tổ có dạy: "Ðối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền".  Nghĩa là: Con người sống trên đời, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, thường xuyên tiếp xúc với các hình ảnh, âm thinh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm và ký ức.  Khi con người tiếp xúc với các trần cảnh như vậy, dính mắc tức là: khởi tâm niệm thương hay ghét, khởi tâm niệm ưa thích hay tức giận, khởi tâm niệm khen hay chê, đều gọi là loạn tâm, là vọng tâm. Không khởi các tâm niệm phân biệt như vậy, gọi là định tâm, hay tâm thiền định. Tức là: Khi đối trước các cảnh trên trần đời, người nào không khởi tâm niệm lăng xăng lộn xộn, gọi là vô tâm, thì chính người đó sống trong cảnh giới thiền định. Ðây là cốt tủy, là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.

Là những người hướng dẫn hàng Phật Tử tại gia, chư vị Tôn Ðức Tăng Ni giữ gìn giới luật một cách nghiêm ngặt, tránh phạm sát giới, không muốn sát sinh, nên phải ăn chay, tuyệt đối không dùng các thức ăn có liên quan đến mạng sống của các sinh vật, để trưởng dưỡng tâm từ bi. Tâm từ bi là điều kiện hàng đầu của người tiến tu theo đạo Phật. Làm tổn hại mạng sống của chúng sinh, làm tổn hại an ninh hạnh phúc của người khác, làm tổn hại thanh danh của người khác, tức làm tổn hại tâm từ bi của chính mình. 

Trong cuộc sống hằng ngày, người Phật Tử tại gia hay xuất gia luôn luôn nhớ thực hành hạnh từ bi, bình đẳng và lợi tha, trong mỗi hành động, lời nói và ý nghĩ.  Cổ nhân có nói: "Nhứt thiết chúng sinh vô sát nghiệp, hà sầu thế giới động đao binh". Nghĩa là: Nếu tất cả chúng sinh không sát hại lẫn nhau, thì lo gì thế giới có chiến tranh.

Còn đối với hàng Phật Tử tại gia, người nào phát tâm ăn chay trường được, thì thực là đáng quý, đáng trân trọng.  Ðó là nhân duyên tốt để tiến tu trên đường đạo, rất đáng khuyến khích. Tuy nhiên, đối với những người, không ăn chay trường, lý do hoàn cảnh, lý do sức khỏe, cũng đừng cố chấp, hấp tấp gây thêm, rắc rối lung tung, ở trong gia đạo, có thể ăn chay, vài ngày trong tháng, với mục đích là: nhắc nhở chính mình, phải luôn luôn nhớ, những lời Phật dạy, áp dụng hằng ngày, tu tâm dưỡng tánh, cũng thực rất tốt. 

Tự nhắc nhở mình: tu là phải hiền, phải có từ bi, đối với tất cả, mọi loài chúng sinh, bắt đầu loài người, cho đến loài vật, từ người thân cận, đến người phương xa, mới là phải đạo.

Người nào chưa thể ăn chay được theo nghĩa đen, vì lý do sức khỏe, vì lý do hoàn cảnh, hay vì bất cứ lý do nào, có thể "ăn chay" bằng cách giữ gìn ba nghiệp (thân khẩu ý) thanh tịnh.  Nghĩa là: thân không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, miệng không nói dối, không nói lời dua nịnh, không đâm bị thóc thọc bị gạo, không nói lời thô tục độc ác, xuyên tạc ngụy biện, xiên xỏ xỏ xiên, tranh cãi liên miên, lợi mình hại người, khen mình khinh người, ý không nghĩ cách vu oan giá họa, không lập mưu thưa gửi kiện tụng người, để kiếm tiền bồi thường, không tham tiền bất chánh bất nhân, không tức giận thù oán người, không chứa chấp lòng ganh tị đố kỵ người khác.

Nói chung, không ăn chay được bằng phương tiện vật chất, người Phật Tử tại gia nên cố gắng, giữ gìn thân khẩu ý, cho được thanh tịnh, trong bất cứ thời điểm nào, tại bất cứ nơi đâu. Ðó chính là tu tâm dưỡng tánh vậy.

Tóm lại, mục đích cứu cánh của đạo Phật, không phải chỉ là những buổi lễ cầu an, cầu siêu, cầu đoàn tụ, cầu đủ thứ chuyện trên trần đời.  Cũng không phải chỉ là những hình thức bên ngoài như: đi chùa lễ Phật, hái lộc đầu xuân, lập chùa thiệt to, lo pho tượng lớn.  Chẳng hiểu nghĩa gì, bởi không tìm học, tìm đọc Chánh pháp, dù ở trong chùa, vài ba chục năm, tăng thêm chấp ngã, chấp pháp mà thôi.

Tất cả những sự tướng kể trên, không phải là không cần thiết, không phải là không nên làm, không phải là vô bổ vô ích, một cách hoàn toàn. Nhưng, như vậy vẫn chưa phải là đủ, chưa phải là cứu cánh, chưa phải là cốt tủy của đạo Phật.  Ðó chỉ là cái vỏ bên ngoài, là vòng rào bên ngoài, khi mới đến với đạo Phật.  Những người thờ Phật, đi chùa nhiều năm, hoặc ở trong chùa, cam tâm dừng lại, hình thức bên ngoài, không học hỏi thêm, như vậy thỏa mãn, cho là đủ rồi, thiệt là đáng tiếc!

Mục đích cứu cánh, của chính đạo Phật:  giác ngộ giải thoát.  Con người cần giác ngộ điều gì?  Theo giáo lý đạo Phật, con người cần giác ngộ: cuộc đời là vô thường, luôn luôn biến đổi, tâm tánh là vô thường, nay vầy mai khác, tấm thân là giả tạm, nay còn mai mất.  Hiểu biết và hành thâm luật nhân quả có thể gìn giữ bản tâm thanh tịnh.  Bản tâm thanh tịnh giúp con người giải thoát khỏi phiền não khổ đau và sinh tử luân hồi.

Cổ nhân có dạy: "Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn".  Do đó nhân dịp, năm hết tết đến, ngoài chuyện ăn uống, ăn chay hay mặn, để giữ mạng sống, bồi dưỡng sức khỏe, chúng ta còn nhiều, chuyện khác để làm, đó là tu tâm, đó là dưỡng tánh, đem lại ích lợi, cho người cho đời, cho chính bản thân.  Kính chúc chư vị, trọn một năm mới: an lạc hạnh phúc, giác ngộ giải thoát.
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ-Nhiệm PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 - 123 Railroad St.,
Brampton, ON, L6X-1G9, Canada.
Tel: 647-828-1016


  





Sunday, 5 November 2017


Lễ Trai Đàn Bạt Độ là Tà Pháp - phi Chánh Pháp.
Tại sao quí Thầy vẫn cứ tiếp tục phổ biến?






Thursday, 2 November 2017


Phật Giáo và Công Giáo Cầu nguyện






 

http://phtq-canada.blogspot.ca/2016/11/tru-bat-gioi-ta-su-cong-san-ta-su-cong.html


Saturday, 19 November 2016


trư bát giới tà sư cộng sản tà sư cộng trừ tà pháp tà đạo


 Tín đồ các tôn giáo luôn luôn bị gạt gẫm và lợi dụng

CG mê tín - PG mê tín - Tôn giáo là mê tín

 

Giác Ngộ và Giải Thoát
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Link:


CHỮ TÂM QUA LỜI CHƯ TỔ DẠY - MC VIET THAO CBL156
TIỀN LÀM ĐỘNG TÂM, TIỀN SINH BẤT TỊNH


http://phtq-canada.blogspot.ca/2016/07/kinh-gui-chu-tang-phat-giao-viet-nam.html

Kính gửi Chư Tăng Phật Giáo Việt Nam trong và ngoài nước



Ý Nghĩa Chấp Ngã Và Chấp Pháp


Dâng Sớ Cầu An 
Tiền Mất Tật Mang
Cúng Sao Giải Hạn 
Tai Nạn Vẫn Tới

DÂNG SỚ CẦU AN - CÚNG SAO GIẢI HẠN

http://phtq-canada.blogspot.ca/2012/01/chuc-mung-nam-moi-nham-thin-2012-van-su.html

 



TAM BẢO: Sáng Suốt - Chân Chánh - Thanh Tịnh


Giá trị tinh thần đích thực chính là Giáo Pháp của đức Phật 

- không phải tượng Phật 

- không phải xá lợi Phật

http://phtq-canada.blogspot.ca/2016/08/gia-tri-tinh-than-ich-thuc-chinh-la_5.html


Lễ Trai Đàn Bạt Độ là tà pháp - phi chánh pháp

http://phtq-canada.blogspot.ca/2016/10/le-trai-bat-o-la-ta-phap-phi-chanh-phap.html


Kính mời tham khảo
LỜI DẶN DÒ CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT
 
Kính mời tham khảo
CÔ HỒN VÔ THƯỢNG SƯ FASHION SHOW


Tiền Làm Động Tâm, Tiền Sinh Bất Tịnh

Việc biến chùa chiền thành các siêu thị Phật

Phật Ngọc - Phật Tâm - Phật Tướng

Thursday, 1 December 2011

Tiền Làm Động Tâm, Tiền Sinh Bất Tịnh

TIỀN LÀM ĐỘNG TÂM - TIỀN SANH BẤT TỊNH
PHẬT TÂM PHẬT TƯỚNG

CHỮ TÂM QUA LỜI CHƯ TỔ DẠY - MC VIET THAO CBL156
TIỀN LÀM ĐỘNG TÂM, TIỀN SINH BẤT TỊNH

TIỀN LÀM ĐỘNG TÂM, TIỀN SINH BẤT TỊNH
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ

http://phtq-canada.blogspot.ca/2014/08/tien-lam-ong-tam-tien-sinh-bat-tinh.html

http://phtq-canada.blogspot.ca/2011/05/phat-tam-phat-tuong-phat-hoc-tinh-quang.html

http://phtq-canada.blogspot.ca/2015/11/ta-phap-trai-bat-o-chan-te-co-hon.html

http://phtq-canada.blogspot.ca/2011/12/thuong-toa-hay-chu-tieu-phtq-so-19-se.html


 


CỐT TỦY CỦA ĐẠO PHẬT
CHÁNH KIẾN VÀ CHÁNH TÍN
CÁCH XƯNG HÔ TRONG PHẬT GIÁO
ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT CÀNH HOA SEN XANH
ĐI CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP
ĐẠO PHẬT BÌNH ĐẲNG VÀ TỰ DO TUYỆT ĐỐI
ĐI TÌM CHÂN LÝ
DIỆU ĐẠO NAN CẦU
KHÔNG CÓ CÓ KHÔNG?
HẠNH BỐ THÍ (CTLĐ 1)
LỜI NÓI – ÁI NGỮ
LUẬT NHÂN QUẢ
LỄ KÍNH CHƯ PHẬT
PHẬT PHÁP TẠI THẾ GIAN
PHẬT GIÁO CÓ MÊ TÍN KHÔNG
PHẬT TÂM PHẬT TƯỚNG (PHTQ 14)
PHẬT PHÁP NHIỆM MẦU
PHƯỚC BÁU
QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG PHTQ
QUA CƠN MÊ
QUÁN ÂM RA ĐỜI
TU TÂM DƯỠNG TÁNH
TU TƯỚNG VÀ TU TÂM
TỘI VÀ NGHIỆP
TỨ NHIẾP PHÁP
TỰ LỰC MỚI THẬT LÀ TU
http://phtq-canada.blogspot.com/2011/05/tu-luc-moi-thuc-la-tu.html



BẤT TÙY PHÂN BIỆT

TK Thích-Chân-Tuệ






BẤT TÙY PHÂN BIỆT
TK Thích-Chân-Tuệ

Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, con người khổ đau triền miên như vậy, cho nên đạo Phật gọi đời là bể khổ. Trong nhiều kiếp trầm luân sanh tử, nước mắt của chúng sanh nhiều hơn bốn biển lớn.

Trên phương diện tự do tư tưởng, con người thường phát biểu nhiều ý kiến. Sống trên đời này, có nhiều ý kiến mới tỏ ra mình là con người văn minh tiến bộ, thuộc giới trí thức, học cao hiểu rộng, kiến thức uyên bác, đông tây kim cổ kinh sử lão thông, việc gì cũng tỏ ra mình rành rọt cả sáu câu, thông suốt từ A đến Z. Cùng một sự việc, cùng một vấn đề, mỗi người đều có ý kiến riêng của mình. “Không ai giống ai”. Không ai chịu nhường bước ai. Không ai chịu nhìn nhận ý kiến của ai. Không ai thực sự biết tôn trọng chân lý, cho nên thường đưa đến chỗ tranh cãi một cách quyết liệt, đôi khi còn đi xa hơn!

Sách có câu: “Năm người mười ý! “. Nghĩa là một người có ít ra là hai ý kiến trong cùng một vấn đề. Một người có ý kiến thế này, nhưng một lúc sau hay một ngày sau, chính người đó lại có ý kiến thế khác, thay đổi ý kiến của chính mình. Bởi thế cho nên con người đấu tranh, cãi vã nhau để bênh vực ý kiến chủ quan “nhứt định là đúng không sai” của mình, võ mồm võ miệng không xong thì xử dụng võ lực, nếu sống trong tình trạng chậm tiến, kém phát triển. Còn nếu như sống trong thế giới văn minh hơn, tiến bộ hơn, phát triển hơn ở các nước Âu Mỹ, con người thưa kiện nhau ra ba tòa quan lớn, quan nhỏ để đòi bồi thường cho bằng được một đô la danh dự hão, sau khi đã tiêu pha gần hết cơ nghiệp thực, đã vất vả gầy dựng bấy lâu nay trong các chi phí kiện tụng.

Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, con người khổ đau triền miên như vậy, cho nên đạo Phật gọi đời là bể khổ. Trong nhiều kiếp trầm luân sanh tử, nước mắt của chúng sanh nhiều hơn bốn biển lớn. Tâm trạng con người thay đổi triền miên, nay thương mai ghét, nay ghét mai lại thương. 

Thương thương ghét ghét như những sợi dây xích trói buộc con người trong vòng phiền não khổ đau, như những lượn sóng cao ngất trời vùi dập con người trong sinh tử triền miên. Biển khổ sông mê mênh mông, chuyện này chưa dứt, chuyện khác xảy ra, như những đợt sóng vỗ, trùng trùng điệp điệp, tiếp nối nhau, cao ngất trời, không biết đến bao giờ mới dứt. Bởi vậy, trong kinh sách có câu: “Ái hà thiên xích lãng. Khổ hải vạn trùng ba”.

Tuy nhiên, đạo Phật không dừng ở chỗ thế gian thường than trời trách đất, kêu khổ, khổ ơi là khổ đó. Ðạo Phật chỉ dạy cho con người nhận định rõ ràng: Cuộc đời khổ nhiều vui ít, cuộc đời sống nay chết mai, cuộc đời nay còn mai mất, không ai biết trước cuộc đời ngày sau sẽ ra sao?

Nhưng đạo Phật không có ý tiêu cực, bi quan, chán nản, yếm thế. Ðạo Phật chỉ dẫn con đường giác ngộ và giải thoát, chứ không dẫn dắt con người đến chỗ yếu đuối, bạc nhược, chỉ biết đặt đức tin vô căn cứ vào thượng đế tưởng tượng, cầu nguyện van xin.

Ðạo Phật chỉ dạy rất nhiều phương pháp, gọi là vô lượng pháp môn, con người ứng dụng để tự giác ngộ và giải thoát mọi phiền não và khổ đau của chính mình một cách tích cực, một cách thiết thực, nhằm xây dựng cuộc đời an lạc hơn, hạnh phúc hơn. Trong vô lượng pháp môn đó, có pháp môn gọi là “Bất Tùy Phân Biệt”. Pháp môn này được Ðức Phật chỉ dạy trong bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, không những dành cho Phật Tử, mà còn dành cho tất cả những ai trên đời muốn tìm hiểu cội gốc của phiền não và khổ đau, cùng những phương pháp giải thoát khỏi các khổ đau và phiền não đó.

* * *
Trước hết, từ ngữ “bất tùy” có nghĩa là: không theo. Còn hai chữ “phân biệt”, tùy theo chỗ dùng, được tạm giải thích có nghĩa là: kỳ thị, so đo, suy lường, tính toán, hơn thua, phải quấy, thị phi, cố chấp, thành kiến, định kiến, thường kiến, đoạn kiến, tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến. Vậy, “bất tùy phân biệt” có nghĩa là trong cuộc sống, muốn được an lạc và hạnh phúc, chúng ta không nên để tâm niệm chạy theo những tư tưởng tính toán, so đo, hơn thua, thị phi, phải quấy, không nên có đầu óc kỳ thị, thiên lệch, thành kiến, nghiêng bên này hay bên kia, bênh vực con mình gièm pha con người khác, không cố chấp một ý nghĩ cố định nào của mình là chân lý tuyệt đối. Một hạt minh châu, hạt châu như ý, có thể phát ra nhiều sắc sáng khác nhau, tùy theo góc cạnh nhìn của mỗi người.

Ở đây, xin nói ngay, “bất tùy phân biệt” không có nghĩa là chúng ta không hiểu biết, không phân biệt được thế nào là chánh tà, chơn ngụy, thiên viên, đại tiểu. Tức là không phải chúng ta không có trí tuệ để có thể phân biệt được thế nào là đúng hay sai, thế nào là thực hay giả, thế nào là thiên lệch hay viên mãn, thế nào là rộng lớn hay nhỏ mọn. Trái lại, chúng ta đã hiểu biết một cách tường tận muôn sự muôn vật đúng như thực tướng, không điên đảo, không sai sót. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải vượt qua trình độ hiểu biết căn bản đó, đạt được sự hiểu biết khá hơn, giác ngộ cao siêu hơn, mới gọi là “bất tùy phân biệt” được.

Chúng ta hiểu biết rõ ràng thế nào là chánh tà, chơn ngụy, thiên viên, đại tiểu, nhưng chúng ta không hề cố chấp vào đó để đưa đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì tâm phân biệt, kỳ thị già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, xuất xứ, học thức, chủ tớ, thân sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa phương, tôn giáo, không thể nào đem lại an lạc và hạnh phúc, chỉ đưa chúng ta đến phiền não và khổ đau mà thôi. Ở đời, chúng ta thường trách người khác có tâm phân biệt, nhưng ít khi chịu phản quan tự kỷ, xét lại xem chính mình có tâm phân biệt như vậy hay không? Bởi vì khi chúng ta nói người này, người kia có tâm phân biệt, tức là chúng ta đã có tâm phân biệt rồi đó.

Ðối với một sự việc nào đó, chúng ta thường không chịu suy xét một cách khách quan, mà hay có tâm phân biệt già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, xuất xứ, học thức, chủ tớ, thân sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa phương, tôn giáo, để đi đến kết luận một cách thiên lệch, không đúng chơn lý, không đúng lẽ phải, không đúng sự thực. Thí dụ như với người thân thích, chúng ta luôn luôn bênh vực, sao cũng cho là đúng! Còn với tất cả những người khác, thế nào cũng cho là sai. Với người đồng đạo hay cùng tổ chức, chúng ta luôn luôn bênh vực, cho là đúng, cái gì cũng đúng! Nhưng với người khác đạo, khác tổ chức thì cho là sai, cái gì cũng sai, tất cả đều sai! Tâm kỳ thị, tâm thiên lệch “phủ bênh phủ, huyện bênh huyện”, thực ra đã có tự ngàn xưa. Ðó chính là tâm phân biệt của con người vậy.

Mục đích tối thượng của đạo Phật còn chỉ dạy chúng ta một điều hết sức cao siêu, vi diệu. Ðó là ngoài những hình tướng bên ngoài như già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, tất cả mọi người trên thế gian này đều có một điều giống nhau, một điều thật giống nhau, một điều hết sức giống nhau, một điều muôn đời giống nhau, một điều khắp nơi giống nhau. Dễ hiểu như là máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, bộ xương cùng trắng, lục phủ ngũ tạng không khác. Con người thuộc mọi sắc dân trên khắp thế giới đều như vậy, thậm chí mọi loài súc sanh cũng đều như vậy. Ðiều giống nhau, đồng nhau đó là cái gì?

Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:”Ly nhứt thiết tướng thị danh thực tướng”. Nghĩa là khi xa lìa tất cả mọi hình tướng bên ngoài của con người, đừng cố chấp, đừng có tâm phân biệt nam nữ, nghèo giàu, già trẻ, đẹp xấu, chúng ta mới có thể nhận ra rằng tất cả mọi người trên thế gian này đều có một bản thể giống nhau, đồng nhau, tạm gọi là “con người chân thật”. Muốn hiểu được, thấy được, giác ngộ được “con người chân thật” của chính mình, chúng ta phải lắng lòng cho thanh tịnh, không tham lam, không sân hận, không si mê. Cũng như mặt hồ nước có phẳng lặng mới có thể soi thấy mặt trăng rằm trong đáy nước. Cũng như không có những đám mây tham sân si che lấp, thì mặt trăng chân thật mới hiển lộ vậy.
Thế nào là “con người chân thật”? Ðó là con người sáng suốt, có trí tuệ bát nhã, đủ năng lực giải thoát mọi phiền não và khổ đau. Ðó là con người không tham lam, không sân hận, không si mê, tâm địa lúc nào cũng sáng suốt, thanh tịnh, tỉnh thức. Ðó là con người bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Ðó không phải là cái thân xác nặng nề của chúng ta đang có hiện nay. Ðó cũng không phải là cái tâm lăng xăng lộn xộn, suy nghĩ vớ vẫn vẫn vơ của chúng ta hiện nay. Thật vậy, những lúc tâm chúng ta lăng xăng lộn xộn, lo lắng bất an, chúng ta không thể sáng suốt suy nghĩ điều gì, nhớ điều gì cả. Chỉ khi nào chúng ta sống được với “con người chân thật” thì khi đó mới thực sự có được an lạc và hạnh phúc của cảnh giới thiên đàng, cảnh giới niết bàn mà thôi. “Con người chân thật” chính là con người không có tâm phân biệt. Nói cách khác, con người có tâm “bất tùy phân biệt” chính là “con người chân thật” vậy.

Người nào cũng có những sự bất như ý, hay gặp điều bất trắc trong cuộc sống. Từ vị Tổng Thống hay Nữ Hoàng cho đến các vị quyền cao chức trọng trong đời, chí đến các dân chúng đủ mọi thành phần, mọi giai cấp trong xã hội cũng đều như thế.

Cho đến các vị chức sắc thuộc các tôn giáo cũng gặp cảnh tai ương, hoạn nạn, bệnh hoạn, thậm chí bị ám sát, tù tội hay bị người đời vu khống, cáo gian, phỉ báng nặng nề.

Vậy thì con người sống trên đời chỉ nên dựa vào tôn giáo, những khi tinh thần xuống quá thấp, gần như tuyệt vọng hay không thấy lối thoát. 

Lúc đó lời cầu nguyện khấn vái van xin sự bình an, sẽ giúp cho con người vượt qua khổ nạn trong tâm thần.

Nếu được như nguyện, cuộc sống trở lại êm ả, bình yên, con người mau mau đi lễ chùa, lễ nhà thờ, tạ ơn sự linh thiêng mầu nhiệm của đấng cứu thế hay mười phương chư Phật.

Đó là đức tin mù quáng của loài người, bất kể theo tôn giáo nào trên trái đất này.
 
Tại sao vậy?
Bởi lẽ, có được gì đâu nếu con người đợi đến lúc bị khổ đau, gặp tai nạn hay mang bệnh nặng nề trên giường bệnh, mới nghĩ đến việc cầu nguyện các đấng vô hình vô sắc trên cõi hư vô trời đất. Nhiều khi do sự tưởng tượng hay do bị đầu độc từ khi con người còn là tấm bé, từ khi mới lọt lòng.

Cầu nguyện như thế thường khi có được gì đâu?
Con người vẫn khổ nạn triền miên trên trái đất này.
Thậm chí cho đến lúc chết, con người vẫn chưa hiểu tại sao?

Câu trả lời chính xác nhất, đó là:
 
- Con người còn phước thì chưa tới số, tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ, gặp thầy gặp thuốc, gặp được quới nhơn. Chuyện lớn hóa nhỏ. Chuyện nhỏ hóa không.

- Người nào kém phước hay hết phước thì mạng vong, đời thường gọi là tới số,hay ngọc hoàng giũ sổ, hết số sống đời, đành phải ra đi thôi.

Như vậy con người có trí tuệ phải lo tu nhân lành, tích phước đức ngay trong cuộc sống lúc còn bình an, khoẻ mạnh.

Làm tròn bổn phận và trách nhiệm làm cha, làm mẹ, làm con, làm vợ, làm chồng, làm sư phụ, làm đệ tử, làm công dân tốt, cứu người giúp đời, chính là những cách để tu nhân tích đức.
 
Không cần tìm đạo đâu xa, trên non hay trên núi, trong am cốc hay trong chùa to tượng lớn. 

Đạo bình thường ở ngay trước mặt, trước mắt.
Tại sao con người không thấy?
Bởi bản ngã con người quá cao, quá lớn, tự cao, tự đại đó mà.
Dẹp được bản ngã, con người sẽ thấy đạo.
Cũng như mây đen tan biến, mặt trời tự sáng tỏ.
Rất là đơn giản.

Thêm nữa, con người phải nên suy tư về chân lý tối thượng, để nhận thấy bản ngã, phá bỏ tà kiến, dẹp trừ cái suy nghĩ, hiểu biết sai lầm về đức tin nơi sự cầu nguyện thần quyền, sự linh thiêng huyền bí.

Con người phải biết thay đổi sự suy nghĩ sai lầm này, phải biết tìm phương cách tu tâm dưỡng tánh, phải biết ngưng làm các điều ác, ngưng tạo nghiệp bất thiện.

Các điều ác hay bất thiện trên đời thực đa dạng, đầy dẫy khắp mọi nơi, đầy dẫy trong tâm con người. 
Thường thì khó nhận ra, bởi lẽ đâu có ai nhận rằng mình là người ác, hay bất thiện đâu? 

Khi nhận ra được đó là điều ác, điều bất thiện, thì lại khó dừng.

Tại sao vậy?
Bởi lẽ đó là điều lợi mình tuy hại người, do 3 tâm: tâm tham, tâm sân và tâm si.
 
Tham sân si chính là 3 yếu tố độc hại trong tâm con người, khiến con người phiền não khổ đau, làm sao trừ được?
Tham sân si thể hiện bởi thân khẩu ý.
 
Do tâm tham, thân con người tạo nghiệp đánh người, cướp của, tà dâm. 
Do tâm sân, khẩu con người chửi mắng, mạ ly, rủa xả người khác, chửi bới tôn giáo người khác. 
Do tâm si, ý con người nhắm mắt tin tưởng nơi ông trời, ông địa, ông táo, ông đồng bà bóng, thần sấm thần sét, thiên lôi hà bá. 
Nhất là con người tin tưởng nơi chức sắc các tôn giáo có thể cứu mình khi khổ đau hay khi tai nạn, thậm chí cầu siêu, cầu hồn khi chết đi. 

Con người nên nhớ rằng, các nhà sư thầy chùa, các ông cha nhà thờ, chết rồi còn chưa biết chắc đi về đâu, làm sao cầu siêu cầu hồn cho bá tánh? 

Các sư các cha vẫn già, vẫn bệnh, và khi chết vẫn được các tín đồ làm lễ cầu siêu, cầu nguyện đó.

Các nghi lễ, nghi thức thuộc các tôn giáo chỉ có tác dụng dẫn dắt con người đi vào con đường đạo đức, đi vào thế giới tâm linh, để giúp con người được an lạc hạnh phúc - chứ không phải để gạt gẫm tín đồ, linh thiêng huyền bí các sư thầy hay các cha cố.

Tóm lại, người nào biết phương cách và thực hành tu tâm dưỡng tánh, người đó lãnh hội được kết quả an nhiên tự tại trong cuộc sống - không phân biệt tôn giáo, xuất xứ, nam nữ, tín đồ hay chức sắc.
Không làm việc ác.
Siêng làm việc thiện.
Tâm ý thanh tịnh.
Sống đời được hạnh phúc. Chết đi được bình an.
Đơn giản thế thôi. []
   
TK Thích-Chân-Tuệ