TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Friday 6 April 2012

***ĐI TÌM CHÂN LÝ

HT Thích Thanh Từ

Buổi nói chuyện này đề tài là: Tìm chân lý.Tất cả chư Tăng chúng ta đi tu để tìm cái gì? Đức Phật ngày xưa đi tu là đi tìm cái gì? Tìm chân lý. Nhưng chân lý là gì? Chân là chân thật, lý là lẽ, là lẽ thật. Lẽ thật đó ở hai lãnh vực: lẽ thật ở ngoài thiên nhiên, vũ trụ và lẽ thật nơi chính con người chúng ta.
Tìm lẽ thật ở ngoài thiên nhiên, vũ trụ là những hình thức hiện giờ các nhà khoa học đang thực hiện. Còn tìm lẽ thật nơi con người thì chính đức Phật đã thực hành, nên chúng ta nói đức Phật đi tìm chân lý.

Tại sao nói đức Phật đi tìm chân lý? Trước hết phải hiểu tại sao đức Phật đi tu. Chắc ai cũng nhớ rằng Ngài chứng kiến cảnh sanh, già, bệnh, chết rồi đi tu. Nhưng Ngài chán nản mà đi tu hay là chứng kiến những cảnh đó Ngài có những quan niệm riêng nên mới đi tu? Nếu nói vì chán nản đi tu thì Ngài yếu ớt quá phải không? Đó không phải là tinh thần đi tìm chân lý. Cho nên chúng ta phải hiểu thấu đáo nguyên nhân đức Phật đi tu, rồi chúng ta mới hiểu được tường tận tại sao mình đi tu.
Đức Phật đi tu tức là đi tìm chân lý, Ngài thấy con người sanh ra lớn lên rồi già, bệnh, chết. Lớp đó qua rồi, lớp kế cũng vậy! Như thế cứ tiếp tục mãi mãi không có ai thoát khỏi sanh già bệnh chết. Nó là cái gì mà lôi cuốn người ta cứ tiếp tục như vậy không cưỡng lại được? Đó là một lý do khiến Ngài muốn tìm hiểu. Kế nữa, Ngài thấy nếu con người sanh ra rồi già bệnh chết, vậy có ai hay có phương tiện nào dứt khoát không còn bị lôi vào vòng sanh già bệnh chết đó nữa không? Đó là hai lý do khiến Ngài muốn tìm cho ra chân lý của kiếp người.
Như hiện giờ chúng ta ai cũng đinh ninh rằng theo luật thiên nhiên con người sanh ra rồi lớn lên, có gia đình con cái, lo cho con cái khôn lớn rồi già chết. Trước ông bà cha mẹ như vậy, sau con cái cháu chắt cũng đều như vậy. Cứ theo cái đà đó tiếp tục chấp nhận luật thiên nhiên ấy. Nhưng với đức Phật, Ngài không thấy như vậy. Ngài thắc mắc vì lý do nào mà con người phải sanh ra, rồi già bệnh chết? chết rồi ra sao nữa? Trước khi sanh ra mình là cái gì? sau khi chết mình là cái gì? có ai biết không? Rồi động cơ nào bắt mình sanh ra? Làm sao để dứt điểm không còn sanh ra nữa? Tất cả đều không ai biết.Đó là những vấn đề đức Phật phải đi tìm. Phăng tìm ra được là thấy chân lý của con người. Bởi lẽ đó nên Ngài đi tu, theo học mấy vị tiên. Vị trước nhất dạy Ngài tu đạt đến cảnh giới Vô sở hữu xứ, Ngài thấy chưa giải quyết được vấn đề thắc mắc nên từ giã ra đi. Tới vị kế dạy Ngài tu đạt đến cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng cũng chưa giải quyết được thắc mắc nên Ngài cũng từ giã ra đi.

Cuối cùng, Ngài nghĩ phải chịu khổ hạnh quên cả thể xác này may ra mới có thể tìm được chân lý, cho nên Ngài tu khổ hạnh. Nhưng khổ hạnh cũng không giải quyết được, chỉ làm thân thể yếu đuối, tâm trí mờ mịt thêm, nên Ngài bỏ luôn khổ hạnh. Sau cùng Ngài phải sử dụng lý Trung đạo, tức là ăn mặc vừa đủ để tu cho trí tuệ sáng suốt. Đến đây, Ngài quyết định tới cội bồ-đề ngồi yên định để tự phăng tìm chân lý.

Đây tôi kể sự giác ngộ đơn giản của Ngài cho quí vị thấy. Ngài ngồi tu dưới cội bồ-đề, đến đêm thứ bốn mươi chín, đầu hôm Ngài chứng được Túc mạng minh. Túc là đời trước, mạng là sanh mạng, minh là biết rõ. Trong kinh A-hàm Phật kể, khi Ngài chứng được Túc mạng minh, những việc của vô số kiếp về trước, nếu Ngài muốn nhớ sẽ nhớ rõ ràng như chuyện hôm qua, không sai chạy. Vì vậy đức Phật biết rằng Ngài đã từng sanh tử vô số kiếp, khi nơi này khi nơi kia. Những câu chuyện Phật kể lại cho đệ tử nghe được ghi chép thành hai bộ kinh Bản Sanh và Bản Sự trong A-hàm. Kinh ghi lại những đời trước của Ngài và các đệ tử đã từng làm gì, ở đâu, tạo ra nghiệp gì... Như vậy giải quyết được nghi vấn thứ nhất: “Trước khi có thân này ta là cái gì?”


Đến canh ba Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy rõ các nghiệp thiện ác, tốt xấu... dẫn dắt con người đi trong lục đạo luân hồi, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy kẻ qua người lại một cách rõ ràng. Trong kinh A-hàm, đức Phật diễn tả rõ như vậy. Thế là Ngài đã giải quyết được nghi vấn thứ hai: “Con người chết rồi sẽ đi đâu?” Ngài thấy rõ, chết rồi không phải hết mà theo nghiệp dẫn đi trong luân hồi lục đạo. Đức Phật chỉ quay lại mình, tìm cho ra manh mối con người, nhưng khi giải quyết xong vấn đề đó, Ngài lại giải quyết thêm những vấn đề khác. Phật thấy suốt cả vũ trụ, thiên nhiên. Thấy cái gì? Ngài thấy ngoài hành tinh chúng ta còn vô số vô lượng hành tinh khác, nên trong kinh Phật mới nói “hằng hà sa số thế giới”, nghĩa là thế giới nhiều như số cát sông Hằng. Đức Phật nhìn trong nước thấy vô số vi trùng, các pháp duyên hợp như thế nào, Ngài đều thấy rõ ràng.

Cuối cùng, khi sao Mai mọc Ngài chứng được Lậu tận minh, tức là dứt hết các mầm rơi trong tam giới chịu sanh tử. Lậu là rơi rớt, tận là hết. Tới đó, Ngài dứt hết mầm sanh tử không còn rơi rớt trở lại nữa, gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy, tới Lậu tận minh Ngài mới thấy rõ tại sao con người phải đi trong sanh tử và làm sao giải thoát sanh tử. Hai vấn đề này hết sức quan trọng. Cho nên sau khi ngộ đạo rồi Ngài đi thuyết pháp, bài pháp đầu tiên nói về Tứ đế, tức là bốn lẽ thật. Trước hết Phật chỉ ra các thứ khổ chúng sanh phải chịu, đó là Khổ đế. Tiếp đến Ngài nói nguyên nhân tạo thành quả khổ sanh tử, gọi là Tập đế. Rồi Phật chỉ chỗ dứt hết sanh tử là Diệt đế và làm cách nào để chấm dứt sanh tử, giải thoát luân hồi, đó là Đạo đế.

Như vậy chỗ đạt đạo của Ngài là thấy rõ manh mối đưa con người vào sanh tử. Bản thân Ngài đã thoát ra khỏi, rồi nói lại rõ ràng cho chúng ta nghe. Như vậy, giải thoát sanh tử là không còn bị lôi kéo vào đường sanh tử nữa. Chính Tập đế là nghiệp nhân dẫn chúng sanh đi trong sanh tử. Nếu dứt nghiệp nhân thì giải thoát sanh tử, rõ ràng như ban ngày.
Đức Phật tới đó là đạt được chân lý. Ngài đạt được ở đâu? Thử trả lời coi. Nhiều người nói Ngài đạt chân lý ở dưới cội bồ-đề. Thật ra không phải. Ngài đạt chân lý ở chính nơi mình, thấy tường tận nơi mình từ khi chưa có mặt và sau khi thân này hoại, thấy rõ nhân nào tiếp tục tạo sanh tử, nhân nào dứt được sanh tử. Phật thấy rõ ràng tường tận như vậy, gọi là đạt được chân lý. Nếu tới cội bồ-đề đạt được chân lý thì bây giờ chúng ta chỉ cần tốn một ít tiền máy bay, qua Ấn Độ tới cội bồ-đề ngồi thiền, có đạt được không? Thành ra chân lý ở chính mình chớ không ở đâu ngoài.

Còn bây giờ chúng ta tu là làm cái gì? Chúng ta đang đi tìm cái gì? Chúng ta đi tìm chân lý ở ngoài thiên nhiên, vũ trụ hay tìm chân lý nơi con người? Phải xác nhận chỗ làm, đường đi của mình cho rõ. Nhiều khi mấy chú không biết ngồi thiền làm gì, mỏi mê nhọc nhằn quá. Chúng ta phải hiểu tại sao mình làm việc đó.
Qua sự chỉ dạy của đức Phật, chúng ta đã thấy rõ sanh tử nhân nơi nghiệp mà có. Tập đế chỉ cho tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, thuộc về ý nghiệp.
Từ ý nghiệp phát ra khẩu nghiệp rồi thân nghiệp, tạo thành một dòng nghiệp, có sức mạnh dẫn chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử. Vậy tuy nói ba nghiệp thân khẩu ý, nhưng thật tình căn cứ theo pháp Tứ đế, thì tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, sáu món căn bản phiền não là trọng tâm đưa mình đi trong luân hồi sanh tử. Trọng tâm đó thuộc về ý nghiệp. Như vậy, ý nghiệp là chủ động tạo nên sức mạnh dẫn chúng ta đi trong lục đạo luân hồi, tiếp tục đời này đời nọ liên miên không dứt.

Chúng sanh luân hồi trong sáu đường, bây giờ mình chỉ ví dụ trường hợp được sanh làm người. Con người sanh ra sáu bảy chục năm rồi chết. Tiếp tục sanh ra sáu bảy chục năm rồi chết... cứ như vậy chừng một trăm lần, nếu chúng ta có thể nhớ lại được thì thấy khổ quá. Tại sao cứ sanh ra rồi đau đớn, già, chết? rồi lại sanh ra, đau, già, chết? Cứ làm hoài chuyện đó khổ sở không biết bao nhiêu. Cho nên trong kinh Phật dạy: Cái khổ bị uống nước đồng sôi, bị nuốt hoàn sắt nóng ở địa ngục chưa phải là khổ, làm trâu ngựa kéo cày kéo xe chưa phải là khổ, chỉ có kẻ si mê không biết lối đi mới là khổ. Vì si mê nên bị nghiệp dẫn cứ tiếp tục sanh tử không dừng, đó là khổ hơn hết.

Cho nên trọng tâm của đạo Phật là giải thoát sanh tử, tức là không bị lôi đi trong sanh tử nữa. Vậy mà có nhiều người nói không biết giải thoát cái gì, làm sao giải thoát? Tu thì tu mà không biết cái gốc đó.
Như vậy muốn giải thoát sanh tử phải dứt nghiệp. Muốn dứt nghiệp phải dừng ý. Nếu ý còn khởi tham, sân, si... ác kiến thì không bao giờ dứt nghiệp, dứt sanh tử. Vậy trọng tâm là ý nghiệp, Tập đế nằm ngay ý. Chúng ta mỗi ngày ba buổi ngồi thiền sáu giờ để làm gì? Để tìm chân lý. Chân lý không trên non cao, không ở ngoài biển cả, không ở trên trời xanh mà ở ngay nơi mình.
Muốn thấy được chân lý, chúng ta phải biết cái gì là động cơ làm mình mê tối. Dừng được động cơ đó thì chân lý hiện tiền, chớ không có gì lạ. Hiện giờ chúng ta khởi vọng tưởng là vọng tưởng về cái gì? Nhớ chuyện gần xa, chuyện hơn thua, phải quấy... Những thứ hào nhoáng, tạm bợ, sanh diệt liên tục không dừng, chợt có chợt không, không phải thật.

 Như vậy, thân và tâm lâu nay chúng ta cho là mình, đều không phải chân lý của con người. Vậy mà chúng ta chấp nó làm mình, không bao giờ thấy được chân lý, nên cứ tiếp tục sanh diệt trầm luân, đời này đời nọ lên xuống không lường được. Tâm sanh diệt tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến là nhân tạo nghiệp ác. Thân sanh diệt vô thường mà cứ muốn được bền lâu, sung mãn nên tìm những thứ bồi bổ, thỏa mãn nó, tạo thành tội ác. Bám vào thân hư dối tưởng lầm là thật rồi dính mắc với sáu trần, tham sắc đẹp, vị ngon, mùi thơm... Lại bám vào tâm sanh diệt tạm bợ tưởng là thật rồi tạo bao nhiêu tội lỗi. Bây giờ thấy rõ ràng hai thứ đó không thật, giả biết giả, là thấy được một phần chân lý, là người biết đúng. Rồi chừng nào thật biết thật, đó là thấy được chân lý.


Bây giờ tất cả chúng ở đây, cái giả đã biết là giả chưa? Thân này thật hay giả? những ý niệm lăng xăng của mình thật hay giả? Nó giả mà chúng ta có bám vào cho là mình không? Đó chính là chỗ ngu si. Cái ngu si của mình không thể tưởng tượng, nên trong kinh Viên Giác, Phật dạy Bồ-tát Văn-thù: “Thế nào là vô minh? Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến giờ, bị các thứ điên đảo, giống như người mê thấy bốn phương đổi chỗ, vọng nhận tứ đại làm tướng tự thân, bóng dáng duyên theo sáu trần làm tướng tự tâm...”

Tất cả chúng ta vì vô minh che phủ nên thấy thân tạm bợ, sanh diệt này thật, tâm vọng tưởng điên đảo phải quấy lăng xăng, chạy mãi khó dừng cho là tâm thật. Cái không thật mà tưởng thật, đó là si mê, vô minh. Vô minh chính là đầu mối của luân hồi. Như Phật dạy trong mười hai nhân duyên: Vô minh duyên hành, do vô minh nhận thân tâm giả dối làm mình nên có hành; hành duyên thức v.v..., rồi nó dẫn đi một vòng luân hồi sanh tử không cùng, không dứt.
Thấy rõ như vậy rồi, chúng ta phải làm sao? Bây giờ ngồi tu quí vị nhìn lại thân này biết rõ nó thật hay không thật? Nói mạnh thử coi!
- Dạ, không thật.
- Ờ, rồi cái tâm lăng xăng thật hay không thật?
- Dạ, không thật.

Hai cái đều không thật nên đừng chấp nó. Không thật mà chấp là si mê. Còn không thật biết không thật, đó là trí tuệ Bát-nhã “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Như vậy, trí tuệ là thấy thân này và những vọng tưởng hư dối không thật. Đó là một bước tiến đến gần chân lý cứu kính. Nếu thấy không thật mà ôm giữ là vô minh. Bây giờ thấy không thật, buông xả không theo là trí tuệ. Như vậy tu là sao? Là thấy đúng như thật về thân và tâm, nhận định rõ ràng hai thứ đó hư dối không thật, tạo nghiệp sanh tử, nên không ôm ấp, bám víu, không cố giữ, đó là chúng ta đã tiến một bước. Cho nên nói cửa thiền là cửa không. Biết thân này và những tâm niệm không thật là bước vào cửa không rồi.

Quí vị thấy đó là lẽ thật không nghi ngờ. Thân này hiện giờ ai cũng quí trọng, nhưng nó có thật đáng quí không? Giả sử người mình thương nhất đã chết bảy ngày không liệm không chôn, mình muốn tới gần thi hài đó thì phải sao? Phải bịt mũi. Như vậy thân của người bình thường mình thương, tới chừng đó mình gớm và sợ, thân của mình người khác có thương, mai kia mình chết bảy ngày họ cũng gớm, cũng sợ. Cái thứ không thật nên khi bại hoại nó ghê gớm nhớp nhúa như vậy, rõ ràng là hiện tượng đáng chán, đáng nhờm. Vậy mà chúng ta mê say, có phải là ngu si điên đảo không? ngu si điên đảo đến cỡ nào?

Rõ ràng thân là tướng hư dối, tạm bợ, nhớp nhúa mà mình lại bảo vệ nó. Rồi lại còn tìm những người khác để thương nữa, thương cái hôi thúi đó. Cho nên đức Phật, khi có mấy kiều nữ tới dụ dỗ, Ngài nói: “Đi! cái đãy da hôi thúi, ta không dùng!” Còn mình đây, thấy cái đãy da đó đẹp như tiên, chỉ nghĩ đẹp như tiên mà không biết nó là đãy da hôi thúi. Tức là thấy cái dáng ở ngoài, được che phủ bằng quần áo, son phấn, rồi quên mất bản chất của nó.

Như chúng ta bây giờ, sáng súc miệng rửa mặt sạch sẽ thấy dễ coi, nếu một ngày một đêm thức dậy không súc miệng rửa mặt, nói chuyện có ai chịu nổi không? Nó là cái gốc bẩn thỉu, hôi thúi mà chúng ta lại tưởng là quí, sống trong ảo tưởng không thật. Chúng ta tu là tìm lẽ thật, lẽ thật nơi con người chớ không phải ở bên ngoài. Nếu chúng ta biết rõ thân này và tâm vọng tưởng đều không thật thì không bám chấp vào thân, đồng thời buông xả được cái chấp vọng tưởng.
Bây giờ tôi hỏi quí vị, như mình đi một khoảng đường từ đây qua bên kia, trong khi đi không khởi nghĩ gì hết, mình có thấy đường đi, có biết bước chân đi và có nghe những tiếng động bên ngoài không? Không khởi niệm mà mình vẫn thấy đường, vẫn biết đi, vẫn nghe những âm thanh bên ngoài. Như vậy cái gì nghe? cái gì đi? cái gì thấy?

Nếu nói ý niệm là mình, lúc không có nó cái gì hướng dẫn đi, cái gì nhìn thấy đường, cái gì nghe tất cả chung quanh? Chỗ đó Tổ Lâm Tế nói: “Chính trước mặt các ông hiện đang nghe pháp ấy vậy.” Khi đang nghe giảng pháp mình không suy nghĩ, chỉ nghe thôi. Nếu cho ý niệm là mình, lúc không suy nghĩ đâu có mình. Như vậy thì ai đang nghe? Ngài chỉ quá rõ, phải không? Ai đang nghe? Cái nghe đó không dấy niệm, tức là không động, không tạo nghiệp thấy, nghe, biết rõ ràng mà không dấy niệm, tức không có tham, sân, si thì có cái gì tạo nghiệp? Nếu chúng ta sống với cái thật đó, lúc nhắm mắt có còn luân hồi không? Như vậy, ý niệm chợt có, chợt không là giả dối. Còn cái biết thấy, biết nghe đó hằng hữu, làm sao giả dối được! Vậy mà chúng ta cứ nhớ cái chợt có chợt không mà quên cái hằng hữu.

Nhưng cái hằng hữu đó ở đâu? Ở ngay nơi mình, cho nên chư Tổ nói “dưới chân ông” hoặc “trước mắt ông”. Chỉ nói bao nhiêu thôi, không chỉ chỗ nào, cứ nhìn lại dưới chân mình. Như vậy cái đó có sẵn nơi mình. Nhất là khi chúng ta ngồi thiền, tâm nghĩ suy lặng đi, mắt vẫn thấy tai vẫn nghe, sự sống trong thân, từng bộ phận biến động thế nào mình biết rõ. Biết tất cả mà không nghĩ suy, đó không phải là cái biết của sanh diệt. Như vậy ai cũng có cái đó. Mà cái đó ở đâu? Ngay đây rõ ràng! Nên ngài Huyền Giác có nói: “Bất ly đương xứ thường trạm nhiên. Mích tức tri quân bất khả kiến.” Không rời chỗ này mà thường lặng lẽ, hễ khởi niệm tìm nó thì không thể gặp. Như vậy chư Tổ đã nói quá rõ.

Cái hằng tỉnh hằng giác mà không dấy niệm đó tên gì? là người, trời hay là gì? Chỗ này đa số người thắc mắc. Đức Phật nói tu dứt hết mầm sanh tử thì được giải thoát. Hỏi cái gì giải thoát sanh tử, Ngài không nói. Tại sao vậy? Vì nếu nói con người giải thoát sanh tử thì không đúng. Vì người là một trong lục đạo, còn cái đó không thuộc về lục đạo. Lục đạo là nghiệp mà cái đó không phải nghiệp. Nói trời cũng không được, vì trời cũng còn trong lục đạo. Vậy nói nó là cái gì? Chỉ nói giải thoát, nghĩa là không còn bị dẫn đi trong sanh tử nữa.
Hiện giờ chúng ta thấy nơi mình có hai cái: một cái sanh diệt tạo nghiệp và một cái không sanh diệt, không tạo nghiệp. Nếu theo sanh diệt tạo nghiệp thì bị dẫn đi trong lục đạo, còn sống với cái không sanh diệt sẽ không tạo nghiệp, tức là giải thoát, không còn bị lôi dẫn trong luân hồi nữa. Đã gọi giải thoát sanh tử thì còn có tên không? Bởi vì nó không đi trong lục đạo, nào biết gọi tên gì! Nó luôn sẵn có nhưng không có tên, cho nên các Tổ thường gọi là “cái không tên”.

Một hôm, Lục Tổ bảo đại chúng:
- Ta có một vật không đầu, không đuôi, không tên, không họ, không lưng, không mặt, các ngươi biết chăng?
Ngài Thần Hội bước ra thưa:
-  Ấy là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội.
Tổ bảo:
- Đã nói với các ngươi là không tên, không họ, ngươi lại kêu là bản nguyên, Phật tánh; ngươi lại đi lấy tranh che đầu cũng chỉ thành tông đồ của hàng tri giải.

Như vậy, tên chỉ là cái chúng ta gán đặt. Hiểu vậy mới thấy rõ chỗ tu của mình. Rõ ràng bên đây là giải thoát không tạo nghiệp, bên kia là sanh tử tạo nghiệp. Bây giờ biết cái kia tạo nghiệp đừng theo thì cái thật hiện tiền, tức không còn bị sanh tử nữa, đó là tu. Rõ ràng như ban ngày.
Còn tiếp tục theo niệm là còn đi trong sanh tử. Theo niệm thì có hai bên: tốt hoặc xấu, thương hoặc ghét... Đó là nhân tham sân si, theo nó thì phải đi trong luân hồi, không nghi ngờ gì nữa. Còn nếu không theo, niệm lặng cái chân thật hiện tiền. Ở đây có người nào thiếu không? Không ai thiếu thì có người nào tu không được? Như vậy ai cũng có quyền đạt đến chỗ đó, nhưng nếu không chịu buông hết ý niệm sẽ không bao giờ thấy.

Tôi ví dụ như dùng một tấm vải trắng làm phông để chiếu bóng. Khi rọi hình lên, chúng ta lo nhìn hình bóng, quên không thấy tấm vải. Chừng nào hình bóng không còn, mình mới thấy tấm vải. Cũng như vậy, khi các niệm dấy khởi, nếu chúng ta theo nó thì sẽ không bao giờ thấy cái thể thật lặng lẽ thầm kín ở trong. Khi niệm lặng, thể chân thật hiện tiền.
Như khi tôi ngồi thiền khuya, muỗi cắn chân bị ngứa. Tôi cảm thấy ngứa ở mặt dưới chân, đầu gối hơi đau, nhưng ngứa đó không phải là tôi, vì tôi biết nó.
Cái đầu gối đau cũng không phải là tôi, vì tôi biết đau. Quí vị ngồi lâu tâm an, biết rõ từng mạch máu đang nhảy, thấy rõ ràng con người mình, tự nhiên cái thật hiển hiện không khuất, không mờ bao giờ.
Bởi vậy tôi thấy tội nghiệp mọi người quá, tại sao không chịu nhìn lại mình, không biết gì về mình hết. Vậy nên hôm nay tôi nói chuyện với tất cả quí vị, vì tôi thấy cái thật rõ ràng mà không ai chịu tin, không chịu thấy, cứ ở trong cái điên đảo chạy ngược chạy xuôi, buồn giận, thương ghét đủ thứ chuyện phiền nhiễu khổ đau.

Khi chúng ta thương ai, nhớ đến người đó mình hơi vui vui, còn nhớ tới người mình ghét thì buồn. Như vậy sẽ có khổ vui khi có niệm yêu ghét, phải không? Ở đời luôn luôn có khổ là có vui, ngược lại có vui liền có khổ. Thí dụ có bà con thương mến ở xa về, chúng ta mừng vui được hai ba ngày rồi họ đi. Lúc họ đi chúng ta thấy buồn. Như vậy có vui là có buồn, cuộc đời vốn như vậy, luôn luôn thay đổi không dừng trong dòng vui khổ lẫn lộn không hề an ổn. Còn khi chúng ta không nhớ nghĩ chuyện gì, tâm mình thản nhiên tự tại.
Lúc đó không vui không buồn mà gương mặt lại tươi. Bởi vì sống với cái thật thì đâu còn đối đãi, đã không đối đãi thì đâu còn đau khổ. Đây là chỗ tột cùng mà chúng ta phải đến.

Link các bài viết:

PHƯỚC TUỆ SONG TU
GỐC RỄ CỦA SỰ AN LẠC

TỨ NHIẾP PHÁP

TỰ LỰC MỚI THẬT LÀ TU

SÁNG SUỐT CHÂN CHÁNH THANH TỊNH